Pages

Powered By Blogger

Wednesday, June 29, 2016


CHƯƠNG 10

CUNG ÐIỆN MÙA HẠ Ở BẮC KINH







Cung Ðiện Mùa Hạ (Summer Palace) là một quần thể tập hợp những kiến trúc tiêu biểu cho nghệ thuật cổ của Trung Hoa bao gồm những đền đài miếu mạo, núi đồi, ao hồ và vườn cảnh nằm ở  ngoại ô Tây Bắc và cách Tử Cấm Thành Bắc Kinh 15 cây số (9.3 miles). Cung Ðiện Mùa Hạ là công viên hoàng gia lớn nhất Trung Quốc được bảo tồn toàn vẹn sau nhiều biến cố chiến tranh được bà Từ Hi Thái Hậu chọn làm nơi nghỉ ngơi hưởng thụ cuộc sống xa hoa vật chất. Cung Ðiện Mùa Hạ là điển hình của vườn cổ Trung Hoa được tổ chức Văn Hóa Thế Giới của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) năm 1998 xếp vào loại Di Sản Văn Hóa Thế Giới.



Ngày 11-10-2005 buổi sáng chúng tôi ra quảng trường Thiên An Môn để vào viếng Tử Cấm Thành nơi hai triều đại Minh và Thanh đóng đô cai trị toàn nước Trung Hoa rộng lớn suốt gần 500 năm từ đầu thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 20. Sau đó đi ăn trưa trên tầng lầu thứ mười mấy của một tòa nhà cao tầng mà ông Lương Kiện hướng dẫn viên đoàn du lịch chúng tôi cho biết thuộc Sở Văn Hóa Thành Phố Bắc Kinh. Ông nói rằng nhà hàng thường phục vụ cho những quan chức nhà nước trong bộ máy chính quyền Bắc Kinh đến ăn trưa nên họ không cho chụp hình. Khi chúng tôi dùng thang máy để lên thấy nhà hàng đã đông khách, các cô tiếp viên trẻ đồng phục đứng đầy chỉ dẫn mọi thứ. Người Trung Hoa bao giờ cũng biết hưởng thụ nhất là trong vấn đề ăn uống từ Từ Hi Thái Hậu với món óc khỉ cho đến Mao Trạch Ðông hô hào cách mạng thắt lưng buộc bụng, chống phong kiến xa hoa lãng phí nhưng suốt ngày đêm toàn là cao lương mỹ vị từ trứng cá Nga Xô, bò non Thanh Hải, xì gà Cuba, rượu ngon Pháp quốc nên mặt lãnh tụ lúc nào cũng tròn đầy, hồng hào béo tốt. Nay đến thế hệ thứ 3 các quan chức Bắc Kinh cũng có nơi ăn riêng trên lầu cao, cỗ bàn mười mấy món cách biệt với nhân dân nông thôn nhất là vùng Trịnh Châu tỉnh Hà Nam đêm nay tôi sẽ tới suốt đời chỉ biết ngô khoai và nhiều gia đình còn sống trong hang. Có thể quan chức ăn trưa nơi đây viện dẫn rằng câu lạc bộ này kín đáo để họ vừa ăn vừa bàn chuyện nội bộ hay sắp đặt thảo luận trước những kế hoạch chương trình cho cơ quan nhưng cũng có thể là nơi hò hẹn tình nhân mà “sư tử Hà Ðông” không bao giờ lên được!



Rời cao ốc của Sở Văn Hóa chúng tôi lên xe để đến Cung Ðiện Mùa Hạ. Xe chạy trên xa lộ một quảng ngắn và ra khỏi xa lộ đi vào vùng ngoại ô Bắc Kinh ít cao ốc, nhà cửa xưa cũ vách xây bằng gạch nung không tô bên ngoài, mái ngói âm dương được tô điểm hoa văn nơi 4 góc. Trời nhiều mây có vẽ sắp mưa nhưng cuối cùng chỉ lất phất những hạt mưa Thu. Phía trước cổng khu Cung Ðiện Mùa Hạ xe buýt đậu rất đông và du khách địa phương tấp nập cười nói ồn ào. Nơi bãi đậu xe có nhiều mương nước được rào lại bằng rào lưới sắt nhưng dưới mương giấy rác, bao ny lông, lon nhôm bỏ đầy trông mất thẫm mỹ một chốn du lịch nhiều khách ngoại quốc!



Nơi khu Cung Ðiện Mùa Hạ ngày nay lui ngược thời gian vào thế kỷ 12 khoảng năm 1115 đến 1234 sau khi nhà Kim dời đô đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh  bây giờ) thì cho đào một hồ lớn để chứa nước mưa cho kinh đô dùng. Hồ được đặt tên là hồ Thanh Thủy và nhà Kim thiết lập một hệ thống dẫn nước từ trên núi Kim Sơn cạnh đó xuống hồ. Ðến đời Nguyên đầu thế kỷ 13 đổi tên núi Kim Sơn thành núi Ung Sơn và hồ Thanh Thủy thành hồ Ung Sơn lý do có lẽ muốn bỏ chữ Kim mang tên triều cũ. Ðời nhà Minh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 cho xây ngôi chùa lớn trên núi Ung Sơn. Ung có nghĩa là cái chum đựng nước. Ðến đời nhà Thanh lúc thịnh trị khoảng năm 1750 vua Càn Long học theo Hán Vũ Ðế cho đào rộng thêm hồ và đổi tên thành hồ Côn Minh với diện tích là 220 mẫu chiếm ¾ diện tích công viên. Mô phỏng theo cảnh Tây Hồ ở Hàng Châu, hồ Côn Minh cũng có Trường Cầu là cây cầu vòng vua Càn Long cho xây có 17 vòm, dài 150 mét, rộng 8 mét nối từ bờ ra đảo nhỏ có tên là đảo Nam Hồ. Trên lan can hai bên thành cầu có những cột đá mà mỗi cột là tượng của một sư tử bằng đá đại lý. Tổng cộng trên cầu có tất cả 544 tượng sư tử không con nào giống con nào. Trên đảo ngoài đình Quách Như  với phong cảnh rộng mở, tầm nhìn bao la còn có tượng con trâu bằng đồng nằm nhìn ra hồ để trấn lụt. Tượng trâu đen láng hình dáng oai hùng nhưng nằm có vẻ thư thái là một tác phẩm nghệ thuật giá trị.



Năm 1750 để mừng thọ mẹ 60 tuổi vua Càn Long còn cho xây ngôi điện tại cổng chính vào công viên ở phía Ðông đặt tên là điện Nhân Thọ và núi Ung Sơn ông đổi tên thành núi Vạn Thọ. Vua Càn Long mở rộng khu đất, xây dựng cầu kiều, đền đài, chùa chiền để biến khu quanh hồ thành một vườn thượng uyển để hoàng gia thư giãn nghỉ ngơi. Ông mô phỏng những cảnh đẹp khắp nước và cho dân công xây dựng nơi đây như cảnh Tây Hồ liễu rũ ở Hàng Châu, cảnh sông nước ghe thuyền ở Tô Châu và đặt tên khu vườn cảnh là Thanh Di Viên.



Sau khi bị liên quân Anh Pháp đốt phá năm 1860, năm 1888 thái hậu Từ Hi vốn thích sa hoa hưởng thụ và bà thường ra đây nghỉ mát trong mùa hè nên lấy trong công quỹ trang bị hải quân 300 triệu lượng tiền để xây lại công viên hoàng gia và đổi tên thành Di Hòa Viên, có nghĩa là “di dưỡng song hòa” (song hòa có nghĩa thiên hòa, địa hòa). Năm 1900 Bát Quốc Liên Quân sau khi chiếm thành Bắc Kinh lại đốt phá và lấy đi những vật đáng giá nơi Di Hoà Viên. Từ Hi Thái Hậu sau khi ẩn trốn ở Tây An trở về lại cho tu sửa lần nữa. Những năm cuối đời Từ Hi Thái Hậu thường sống ở Di Hòa Viên để giải trí nghỉ ngơi và điều hành việc nước. Trải qua hai triều vua Ðồng Trị và Quang Tự, mọi quyền hành đều trong tay Từ Hi Thái Hậu, vua Quang Tự là cháu của bà được xem như bị giam lỏng, tiếp các phái bộ ngoại giao cũng ở đây cho đến Cách Mạng Tân Hợi 1911 do ông Tôn Dật Tiên lãnh đạo mới chấm dứt nhà Thanh.



Di Hòa Viên một cách tổng quát là gồm núi Vạn Thọ và hồ Côn Minh chiếm một diện tích là 294 mẫu (726.5 acres) trong đó có đến 3,000 kiến trúc như đền đài, tháp miếu, cổng môn, hành lang và cầu cống.



Trên sân sau điện Nhân Thọ có một tảng đá trắng hình thù đặc biệt dài khoảng 10 mét và cao hơn 3 mét, ông Lương Kiện cho rằng: Tảng đá này do một tỷ phú muốn lập vườn hoa, non bộ ở Bắc Kinh thuê người trục lên từ đáy Thái Hồ ở Tô Châu và khi đem về tới Bắc Kinh thì ông bị khánh kiệt tài sản không còn tiền bạc để làm vườn hoa nữa nên bỏ lăn lóc giữa đường. Trong khi bảng ghi chú dựng nơi đây ghi rằng “Một vị quan nhà Minh tên Mi Wanzhong tìm thấy đá ở Fangshan về phía Tây Nam của Bắc Kinh và khi chuyển được đá về nhà ông ở Shaoyuan thì tán gia bại sản bỏ đá giữa đường người đi qua gọi nó là “Khuynh gia thạch”. Một ngày vài cận thần tâu vua sự lạ, nhà vua đích thân đi xem đá và rất ưng ý kiểu dáng của nó nên truyền đem về dựng trước cung Từ Hy Thái Hậu và đặt tên nó là Thạch Lạc Thọ. Nhưng sau thái hậu biết chuyện “đá phá sản” bà giận dữ quở trách. Ðám quan xúm vào tâu rằng đá có hình nấm linh chi vốn là một thứ qúy hiếm dùng làm thuốc bổ mà thái hậu thường dùng, đá biểu tượng cho sự trường thọ. Bà Từ Hi nghe vậy thích ý nên vui lòng để đá yên ở vị trí cho đến ngày nay.



Sau khi qua điện Nhân Thọ, chúng tôi bước đi trong dãy hành lang một bên là hồ Côn Minh còn bên phải là núi Vạn Thọ. Hành lang có mái che vừa làm lối đi vừa là nơi ngắm cảnh dài 728 mét, tổng cộng có 273 gian nối liền nhau. Trên những đà ngang sát mái dọc suốt hành lang , Từ Hi Thái Hậu đã cho vẽ 8,000 bức họa danh lam thắng cảnh hoặc những nhân vật dựa theo các tác phẩm văn chương cổ điển như Tam Quốc, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng v.v...Tôi thật sự không biết các bức họa hiện nay nguyên thủy hơn 100 năm hay đã được vẽ lại nhưng hiện tại thấy phai màu có nhiều nơi gỗ bắt đầu mục và người ta đang tu sửa. Suốt hành lang dài gần một cây số mà cột kèo, đà gỗ nào cũng được vẽ hoa văn trang trí chi tiết thật là một công trình tốn qúa nhiều thời giờ và công sức.



Chúng tôi đi hết dãy hành lang đến một khu đất rộng nhiều miếu mạo, nơi đây sát bờ hồ và nhìn thấy một kiến trúc lạ kỳ: nó như một ngôi đền có nét Hy Lạp màu đá trắng nhưng phiá trước như mũi tàu và đưa ra trên mặt hồ. Ông Lương Kiện cho biết đó là chiếc thuyền đá mà người Âu làm tặng cho bà Từ Hi năm 1903. Bà Từ Hi thích đi tàu dạo mát trên hồ nhưng chiếc tàu máy hơi nước người Âu tặng bà, gia nhân không biết bảo trì nên thường hư không chạy được. Bà nói rằng bà không cần tàu chạy, đậu một chỗ cũng được nên người Âu xây cho bà chiếc thuyền đá này để bà chiều chiều lên hóng mát. Ði đến đây chúng tôi đã “oải” nên góp tiền lại mỗi người 10 yuan để thuê thuyền đưa chúng tôi về lại cổng chính nơi xe buýt đậu. Lúc đi thì đi bộ, lúc về lại ngồi thuyền thật là “Ði và về không cùng nghĩa như nhau” (Tựa một bài thơ của thi sĩ Du Tử Lê). Ngồi thuyền rồng chạy bằng máy cũng vui, vừa hàn huyên vui như pháo nổ vừa nghe lao xao sóng vỗ mạn thuyền. Trưa hôm nay trên mặt hồ nước bốc hơi nên lờ mờ như sương phủ, ngang qua chiếc cầu cong 17 vòm chỉ thấy mơ hồ như một chiếc lược cong, nước và trời đều một màu xám đục. Mùa Ðông mặt hồ nước sẽ đóng băng và người ta sẽ chơi trượt băng trên mặt hồ. Tôi nhớ lại hồ trong công viên giải trí Ðầm Sen ở Sài Gòn cũng giống hao hao như hồ này nhưng nhỏ hơn nhiều. Trung Hoa cái gì cũng to lớn, đồ sộ trong khi ở VN cũng lối kiến trúc hay vườn cảnh (landscape) đó nhưng tầm vóc khiêm nhường nhỏ bé thí dụ như thành Huế cũng giống như Tử Cấm Thành cũng có Ngọ Môn, Thái Hòa Ðiện, Hộ Thành Hào nhưng tầm vóc nhỏ hơn.









CHƯƠNG 9

TỬ CẤM THÀNH Ở BẮC KINH









Tọa lạc ngay giữa trung tâm thành phố Bắc Kinh, Tử Cấm Thành là hoàng cung của hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh, là nơi cư ngụ của các vị hoàng đế Trung Hoa trong suốt gần 500 năm, từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ 20. Một thời đã là nơi an ninh nghiêm nhặt tường cao hào rộng, dân chúng không được héo lánh. Ngày nay Tử Cấm Thành là Viện Bảo Tàng Hoàng Cung (Palace Museum) mở rộng cửa cho mọi người vào tham quan, chiêm ngưỡng công trình đồ sộ như  chủ nhân của nó là nước Trung Hoa đã mở rộng cửa với thế giới bên ngoài.

Triều Minh bắt đầu với Chu Nguyên Chương đánh đuổi được quân Mông Cổ là nhà Nguyên chạy về phương Bắc năm 1368. Triều Minh có 2 vua đầu đóng đô ờ Nam Kinh là Chu Nguyên Chương tức Thái Tổ và Huệ Đế. Thái Tổ xây thành ở Nam Kinh nhưng bị cháy rụi. Chu Đệ tức Thành Tổ cướp ngôi của cháu là Huệ Đế rồi dời đô lên Yên Kinh (Bắc Kinh) và cho xây thành Bắc Kinh suốt 14 năm từ năm 1406 đến 1420 theo nguyên mẫu và đúng kích thước như ỏ Nam Kinh.

Theo tài liệu, sách vở của Trung Quốc hiện nay thì người thiết kế và tổ chức công trình vĩ đại này là một vị Mộc công thời triều đại Nhà Minh. Ông họ Khoái, tên là Tường, người Hương Sơn, huyện Ngô, phủ Tô Châu. Ở Tô Châu từ xa xưa đã là một vùng đất nổi tiếng về nghề mộc với nhiều nghệ nhân tài ba. Năm 1417, Khoái Tường cùng một nhóm thợ được mời về Bắc Kinh đảm nhận công việc thiết kế và thi công xây dựng các cung điện cho vua và hoàng gia. Lúc bấy giờ Khoái Tường ở vào tuổi 40, vẫn còn trẻ trung, kinh nghiệm dồi dào. Ông được nhà vua bổ nhiệm làm chức “Doanh thiện sở thừa” một chức quan trông coi sửa chữa xây dựng các công trình trong hoàng cung.) Theo sử sách ghi chép, các công trình này xây dựng phải mất ba năm mới hoàn thành, trong đó Thừa Thiên Môn sau này đổi tên là Thiên An Môn. Kỹ thuật thiết kế được tính toán tinh vi và công việc xây dựng thật khéo léo.

XÂY DỰNG TỬ CẤM THÀNH LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT NAM

Trong thư viện Trung Quốc có rất nhiều sách và tài liệu ngay cả truyện mô tả rằng thành Bắc Kinh cũng như nhiều cung điện trong Tử Cấm Thành được thiết kế và xây dựng bởi một người Việt Nam đó là ông Nguyễn An một quan thái giám bị quân Minh bắt khi họ xâm lược VN dưới thời Hồ Qúy Ly. Ông này giỏi về xây cất nên được nhà Minh trọng dụng làm trưởng công trình sư.

Trong bài viết “Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài Việt Nam” của ông Nguyễn Sang viết tại San Jose ngày 12-4-1994 có đoạn nguyên văn xin được trích dẫn như sau:

“Cách đây hơn 40 năm, có một nhà sử học Trung Quốc tên là Trương Tú Dân liên tiếp phát biểu một số bài vở ghi nhớ công lao của Nguyễn An trên các báo chí đương thời với những đầu đề như "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Nguyễn An, vị Thái giám nhà Minh, người An Nam", "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" , "Sự đóng góp của người Giao Chỉ cho Trung Quốc đời Minh". Sau năm 1953, các nhà sử học Việt Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Ðào Duy Anh và Ðặng Thái Mai lần lượt sang thăm Trung Quốc, đến thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt Nam. Phía Trung Quốc nhiều lần giới thiệu với khách Việt Nam về những cống hiến của Nguyễn An đối với công cuộc xây dựng Bắc Kinh và coi đó là giai thoại về mối tình hữu nghị Việt-Trung lâu đời. Nhưng những năm gần đây, nhiều tài liệu Trung Quốc khi nói tới các công trình xây dựng Bắc Kinh đời Minh, chẳng hạn như quyển "Niên Biểu Ðại Sự Lịch Sử Trung Quốc" và quyển "Giới Thiệu Sơ Lược Về Cố Cung" của Thẩm Khởi Vĩ khi nhắc tới chuyện Minh Thành Tổ và Minh Anh Tôn xây dựng Bắc Kinh, đều không có tên của Nguyễn An. Quyển "Danh lam cổ tích Bắc Kinh" liệt kê danh sách những người tham dự công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh, có Ngô Trung, Thái Tài, thợ mộc Khoái Tường, thợ nề Dương Thanh và thợ đá Lục Tường, nói "Lục Tường có đóng góp rất to trong công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh". Tuy quyển này có thừa nhận sự đóng góp về quy hoạch thiết kế và thi công của Nguyễn An cũng không nhỏ, nhưng đặt tên của Nguyễn An ở chỗ cuối cùng, đứng sau cả thợ nề, thợ đá. Ðiều đó hiển nhiên là một sự bất công.”

Cố cung Tử Cấm Thành có dòng sông đào bao quanh bảo vệ gọi là Hộ Thành Hà rộng 50 mét chạy song song với tường thành cố cung cao 10 mét dài 3,000 mét tạo nên một hệ thống phòng thủ cuối cùng thật kiên cố với 4 vọng lâu ở 4 góc thành. Đây là một công trình quân sự, văn hóa có giá trị và cảnh quan nơi đây uy nghiêm trầm mặc và thơ mộng. Bốn mặt Tử Cấm Thành có 4 cổng ra vào là Ngọ Môn cửa chính lớn nhứt ở hướng Nam, Thần Vũ Môn ở hướng Bắc, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn ở hai bên. Hiện nay Ngọ Môn đón khách vào thì Thần Vũ Môn là cửa tiển khách ra. Bên ngoài Ngọ Môn là Thiên An Môn, Thiên An Môn là cổng chính của hoàng thành trong khi Ngọ Môn là cổng chính của Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành nằm gọn trong lòng hoàng thành. Bức tường hoàng thành dài 30 cây số đã bị phá bỏ từ thập niên 1960 để xây dựng thành phố Bắc Kinh.Tử Cấm Thành có hình chữ nhựt bao gồm 980 tòa cung điện, lầu cát với tất cả 8,707 căn phòng được xếp đặt vuông vắn hài hòa trên môt khu đất rộng 720,000 mét vuông. Nếu một thái tử mỗi đêm ngủ trong một căn phòng thì phải mất gần 24 năm mới ngủ hết các phòng trong Tử Cấm Thành!

Tử Cấm Thành có nghĩa là thành có tường màu tím. Chính giữa Tử Cấm Thành có 2 cụm lầu đài quan trọng là Ngoại Triều Tam Điện phiá trước và Nội Đình Tam Cung phiá sau. Ngoại Triều Tam Điện có Thái Hòa Điện, Trung Hòa Điện và Bảo Hòa Điện. Nội Đình Tam Cung có Càng Thanh Cung, Giao Thái Điện và Khôn Ninh Cung. Cửa Ngọ Môn hình chữ U có 5 cửa (3 cửa trước và 2 bên hông) và 5 tòa điện nên còn được gọi là Ngũ Phượng Lầu. Chỉ đứng trước Ngọ Môn nhìn vào bên trong là ta cảm nhận được sự bao la hùng vĩ của quần thể kiến trúc là nơi trị vì của 24 hoàng đế Trung Hoa thuộc 2 đế chế Minh (14 triều vua) và Thanh (10 triều) trải dài suốt 5 thế kỷ từ 1424 đến 1911.

NGOẠI TRIỀU TAM ĐIỆN

Vượt qua Ngọ Môn đến khu đất ngày trước là nơi người bình thường không thể nào đặt chân tới được, là một khoảng sân rộng có dòng sông Kim Thủy hình cánh cung chắn ngang phiá bên trên có 5 cây cầu bằng đá bạch ngọc bắt ngang. Trước khi du khách tới Thái Hòa Điện phải đi qua Thái Hòa Môn là cửa chánh của Ngoại Triều Tam Điện xây năm 1420. Thái Hòa Điện cũng được xây lần đầu năm 1420 nhưng sau đó cháy nhiều lần vì bị sét đánh và điện hiện tại được xây năm 1695. Thái Hòa Điện lợp ngói lưu ly màu vàng cao 35 mét có 11 gian cung điện rộng 2,377 mét vuông được xây trên nền đá bạch ngọc. Chính giữa nội thất là ngai vàng của hoàng đế để vua nhà Minh chủ tọa các lễ mừng như Tết Nguyên Đán, Tết Đông Chí, đăng quang hoàng đế, sinh nhật vua, tấn phong hoàng hậu, xướng danh tân khoa tiến sĩ và lễ xuất quân ra trận. Thái Hòa Điện lớn nhất trong Ngoại Triều Tam Điện. Nơi sân rộng lát đá trước Thái Hòa Điện chúng tôi thấy có tượng sư tử, rùa và hạc trang trí đứng chầu. Có hai cái đồng hồ làm bằng dĩa đá dựng nghiêng trên đó có ghim một cây sắt xuyên qua tâm dĩa đá và người xưa nhìn vào bóng cây sắt do mặt trời chiếu xuống để đọc giờ. Ngoài ra trên sân còn có những lư đồng lớn trước kia mạ vàng đã bị liên quân Bát Quốc dùng dao cạo mất lớp vàng bên ngoài. Những lư đồng này ngày xưa có công dụng để đựng nước để chữa cháy các cung điện.

Sau điện Thái Hòa là Trung Hòa Điện là kiến trúc nhỏ nhất trong Ngoại Triều Tam Điện cũng được xây lần đầu năm 1420, điện hiện tại xây năm 1627. Trung Hòa Điện là nơi nhà vua nghỉ ngơi, chuẩn bị trước khi cử hành các nghi lễ như thực tập đọc bài tế trời đất, giám định các dụng cụ tế lễ như các nông cụ để tế đất cầu cho mùa màng.

Điện cuối trong khu Ngoại Triều Tam Điện là Bảo Hòa Điện cũng được xây năm 1420 và cháy vài lần còn lại rường cột sau đó được xây lại. Rộng 1,240 mét vuông gồm 9 gian điện là nơi cử hành hôn lễ các hoàng tử, công tước và các tiểu vương các sắc tộc và các nghi lễ giỗ chạp trong hoàng gia. Nơi đây cũng dùng làm nơi vua khảo hạch sĩ tử lần cuối trước khi chọn tiến sĩ. Có hai vua chọn nơi đây làm ngự phòng để trú ngụ.

NỘI ĐÌNH TAM CUNG

Ngoại Triều Tam Điện là nơi nhà vua chủ tọa các nghi lễ, họp triều chính còn Nội Đình Tam Cung là nơi nhà vua và hoàng gia sinh hoạt và trú ngụ. Khu Nội Đình Hậu Tam Cung có diện tích nhỏ hơn bằng 1/4 khu Ngoại Triều Tam Tiền Điện và khu ngoại triều rộng lớn chiếm 1/5 diện tích hoàng cung. Sách Thanh Cung Sử có ghi các cung điện trong Nội Đình Tam Cung đều tượng trưng cho sự phối hợp giữa trời đất, nhật nguyệt. Càng Thanh Cung và Khôn Ninh Cung tượng trưng cho trời và đất trong khi Giao Thái ở giữa tượng trưng cho sự giao hòa. 

Sau khi đi qua Càng Thanh Môn là cửa chính của Nội ĐìnhTam Cung khách mới vào được Càng Thanh Cung là tiền điện của nội đình, là tổng cung của vua và hoàng hậu, cho đến đời Khang Hy là nơi vua phân xử giãi quyết việc nội đình. Khi Ung Chính về ở điện Dưỡng Tâm thì Càng Thanh Cung là nơi ông duyệt các tấu báo của các quan thần cũng là nơi ở của hoàng thái hậu. Chính nơi đây Từ Hy Thái Hậu đã lộng hành thao túng và tiếm quyền vua Quang Tự là con của mình. Nơi đây có bức hoành phi “Chính Đại Quang Minh” do Ung Chính sai treo để răn đe con cháu không được hãm hại lẫn nhau để tranh đoạt ngôi vua. Khi chọn thái tử kế vị ông viết tên vào một tờ giấy, ông giữ một nửa và một nửa được để trong bức hoành phi. Sau khi ông chết triều đình sẽ họp và nối nửa mảnh giấy lại để biết ai là người nối ngôi.

Giữa hai bậc thang của lối lên Càng Thanh Cung có một tảng đá bạch ngọc nguyên khối rất to lớn gọi là Vân Long Thạch Điện có điêu khắc hình rồng và mây được chế tác từ thời Minh sau Càn Long sai khắc lại. Tảng đá dài đặt nghiêng theo độ nghiêng của bậc thang hai bên được xem là tảng đá trắng điêu khắc lớn nhứt thế giới.

Giao Thái Điện nằm ở giữa là nơi cử hành các nghi lễ dưới triều nhà Thanh như sắc phong hoàng hậu, tấn phong thái tử, tết nguyên đán, đoan ngọ, đông chí, sinh nhựt hoàng hậu đều được cử hành nơi đây. Ở đây có treo hai chữ “Vô Vi” trong triết lý đạo Lão nói lên sự hòa hợp giữa vua và hoàng hậu. Giao Thái Điện còn là nơi hoàng hậu tiếp đãi hoàng thân quốc thích cũng là nơi cất giữ 25 bảo ấn do vua Càn Long sưu tầm được.

Khôn Ninh Cung là nơi ở của hoàng hậu nhưng đến triều đại nhà Thanh cho sửa lại theo phong tục Mãn Thanh làm hai là Tây Noản Thần là nơi vua tế thấn và Đông Noản Thần là nơi vua và hoàng hậu động phòng sau lễ cưới. Ngoài Ngoại Triều Tam Điện và Nội Đình Tam Cung trong cố cung Tử Cấm Thành còn vô số những cung điện miếu mạo khác như Khâm An Điện, Hoàng Nghĩa Cát, Dũng Tâm Điện, Thể Nhân Cát, Đại Phật Đường, Nội Cát Phật Đường đều là những  kiến trúc lộng lẫy sắc thái riêng có mục đích sử dụng khác nhau, là những đơn thể góp phần vào sự hoành tráng vĩ đại của toàn bộ Tử Cấm Thành.

Trong Nội Ðình Tam Cung chúng tôi bắt gặp một nhà vệ sinh 4 sao (Four Star Toilet) có gắn bảng đồng  đàng hoàng do cơ quan du lịch Bắc Kinh xếp hạng. Bên ngoài là một kiến trúc cổ, tôi thử vào bên trong xem sao? Thấy khá sạch sẽ không có bốc mùi nước tiểu như những nhà vệ sinh công cộng khác. Trung Quốc ngày càng văn minh tiến bộ nhưng nhà vệ sinh vẫn còn... mất vệ sinh! Một chị trong đoàn du lịch hỏi hướng dẫn viên David sao trong Tử Cấm Thành có gần 9,000 căn phòng sao không thấy một phòng vệ sinh nào hết vậy? Vậy ngày xưa vua chúa, hoàng gia đi vệ sinh ở đâu? David cười trả lời là họ dùng “night pot” tức là ống nhổ!

Phía sau Nội Đình Tam Cung là vườn thượng uyển gọi là Ngự Hoa Viên rộng 11,000 mét vuông. Đây là nơi duy nhất trong Tử Cấm Thành có trồng cây cối còn những nơi khác không có cây kiểng vì sợ thích khách ẩn núp, chẳng những là người bên ngoài mà còn người trong triều đình sát hại lẫn nhau! Trong Ngự Hoa Viên có 20 lầu cát, đình đài nhưng lớn hơn hết là Khâm An Đài có mái kép và những vật trang trí trong vườn thường làm bằng đồng và đá qúy. Ngự Hoa Viên trồng toàn những cây cổ thụ quý hiếm phương Bắc xen lẫn là những bông hoa xuất xứ từ phiá Nam trong đó chúng tôi thấy hai cây tùng bách trồng cạnh nhau nhưng hai thân xuyên qua nhau và được đặt tên là Cây Uyên Ương, các đôi trai gái hay vợ chồng rất thích chụp hình trước cây này.

Chúng tôi ra khỏi Tử Cấm Thành bằng cửa Thần Vũ Môn ở hướng Bắc và qua cây cầu lớn bắt ngang Hộ Thành Hà. Chúng tôi phải đi bộ một khoảng dọc theo Hộ Thành Hà để đến nơi xe buýt đậu. Đoạn đường này rất nhiều ăn mày có người lê lết dưới đất bằng miếng ván có gắn bánh xe nhưng ông Lương Kiện có dặn trước là đừng cho tiền ai hết vì họ sẽ xúm tới chèo kéo rất hỗn độn.

Phiá Bắc Tử Cấm Thành là một ngọn đồi giả sơn cây cối xanh tươi mà đất đấp tạo thành ngọn núi nhân tạo đó là do đào Hộ Thành Hà ngày xưa. Trên đồi ấy có một cây bách mà vua cuối cùng của nhà Minh là Tư Tôn (hiệu Sùng Trinh) bị phiến quân Lý Tự Thành kéo quân về phải treo cổ tuẫn tiết trên cây bách đó. Theo lời ông Lương Kiện thì 2 năm trước cây bách ấy chết và người ta đã trồng cây cùng loại thay thế vào nơi chỗ cây đó. Biến cố lịch sử chấm dứt triều đại nhà Minh đã được học giả Nguyễn Hiến Lê mô tả trong “Sử Trung Quốc” như sau:

“Năm 1642 Lý Tự Thành bao vây Khai Phong trong 4 tháng, đánh tan quân triều đình tới để giải vây, danh vang dậy, dân chúng càng theo nhiều, uy tín hơn hẳn Trương Hiến Trung. Lý cũng chỉ là một nông dân vô học, một tướng cướp tàn bạo nhưng can đảm, có tài cầm quân, thông minh, có óc làm chính trị.

....Tháng 3 ông vượt Hoàng Hà, chiếm Sơn Tây như vào chỗ không người. Triều đình hoảng hốt, bàn tán xôn xao, mỗi người một ý...Sau cùng chỉ còn một giải pháp triệu tướng Ngô Tam Quế đương chống với Mãn Thanh ở biên giới về cứu nguy! Trễ quá rồi Ngô Tam Quế lúc đó cách Bắc Kinh 400 cây số, mà quân của Lý ở Sơn Tây gần hơn, tới Bắc Kinh trước...Ngày 19 tháng 4, Lý tới đốt phá khu lăng tẩm nhà Minh rồi thẳng tiến tới Bắc Kinh. Ngày 24, họp triều, tất cả các đại thần chỉ khóc ròng, không thốt được lời nào.

Hôm sau Tư Tôn sai vài hoạn quan thân tín cải trang cho thái tử và hoàng tử, đưa ra ngoài thành trốn đi. Sau đó ông cùng với hoàng hậu và một qúy phi rầu rĩ uống vài chung rượu. Khi cạn chén, qúi phi đứng dậy rút lui trước, ông rút gươm chém nàng một nhát, nàng ngã gục dưới chân ông. Hoàng hậu vội vàng về cung, tự ải bằng chiếc dây lưng. Nhà vua chém xong hai công chúa rồi vô phòng hoàng hậu, thấy thây vợ lủng lẳng, ông lẩm bẩm “tốt, tốt”.

Sáng sớm ngày 26, chuông vẫn đổ báo giờ họp triều nhưng không ai tới cả. Tư Tôn cùng với viên thái giám thân tín cuối cùng Vương Thừa Ân leo lên Môi Sơn (một núi giả sau cung điện) đứng nhìn kinh thành và đồng ruộng một hồi lâu, có lẽ để xem Ngô Tam Quế có sắp tới không? Rồi ông viết lên mặt trong vạt áo: “Trẫm bạc đức, đáng khinh bỉ, đã bị Thượng Đế trừng phạt. Các đại thần của trẫm đã lừa trẫm. Trẫm xấu hổ gặp các tiên vương ở suối vàng. Cho nên trẫm tự lột mũ miện, xõa tóc che mặt, đợi cho quân địch xé thây. Đừng đụng đến một thần dân nào của trẫm”.

Viết xong ông tự treo cổ trên một nhánh cây. Vương Thừa Ân cũng tuẫn quốc theo chủ với trên 40 người nữa. Vài giờ sau Lý Tự Thành vô cung điện cùng với bộ hạ và leo lên ngai vàng”.







 


Tuesday, June 28, 2016


CHƯƠNG 8

QUẢNG TRƯỜNG THIÊN AN MÔN








CHƯƠNG 8

QUẢNG TRƯỜNG THIÊN AN MÔN



Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh là trái tim của đất nước Trung Hoa, nối với Tử Cấm Thành ở hướng Bắc bằng cổng Thiên An Môn là biểu tượng của Bắc Kinh. Những biến cố trong lịch sử cận đại đều xảy ra nơi đây như Cách Mạng Văn Hớa, biểu tình đòi mở rộng tự do dân chủ của sinh viên năm 1989. Đến Bắc Kinh là phải viếng quảng trường Thiên An Môn để thấy hàng lớp rừng người Trung Hoa trên mọi miền đất nước đổ về đây như đi trẩy hội. Giấc mơ trong đời của họ là một lần được đến Thiên An Môn và viếng Tử Cấm Thành.



Tám giờ sáng ngày thứ ba 11-10-2005 chúng tôi đã có mặt ngoài quảng trường Thiên An Môn. Hôm nay là một ngày mùa Thu nắng lên rất đẹp và hàng hàng lớp lớp rừng người đã tụ tập nơi đây, họ đi thành từng đoàn có đồng phục hẳn hoi như học sinh áo trắng quần xanh quàng khăn đỏ, những người cao niên bước đi khệnh khạng trong áo khoác xanh đậm, nam nữ cùng một kiểu, họ có lẽ là cựu chiến binh hồng quân hay là vệ binh đỏ. Có những đoàn hình như là công nhân một nhà máy nào đó ở tỉnh xa lần đầu được đi du lịch Bắc Kinh nên nét mặt người nào cũng hân hoan, phấn khởi, kêu réo, cười nói xôn xao cộng thêm những tiếng loa hướng dẫn của trưởng đoàn và những cây cờ tam giác đủ màu sắc của các đoàn du lịch khiến quảng trường Thiên An Môn như một ngày hội lớn. Khách sạn chúng tôi cư ngụ là Tianlun Dynasty Hotel cách chỉ hơn 1 mile về hướng Đông Bắc nhưng chúng tôi vẫn đi xe và xe buýt đậu bên ngoài vì quảng trường chỉ dành cho người đi bộ. Con đường lớn chạy xuyên qua quảng trường là đại lộ Trường An (Chang An) là con đường huyết mạch của thành phố Bắc Kinh dài 50 km chạy theo hướng Đông Tây và nơi đây được mở rộng ra 100 mét cũng không cho xe buýt đi vào mà chỉ xe hơi nhỏ và xe đạp mà thôi. Trước khi xuống xe ông Lương Kiện đã căn dặn rằng nơi đây rất đông người coi chừng bị lạc, phải luôn đi theo lá cờ vàng của ông và đề phòng bị móc túi hay giựt bóp, phải cảnh giác khi có người lạ mặt chen vào đoàn chúng ta cũng như không nên cho tiền những người ăn xin vì hàng chục người khác sẽ bám theo.



Quảng trường Thiên An Môn rộng 440,000 thước vuông, chiều rộng theo hướng Đông Tây 500 mét, chiều dài theo hướng Nam Bắc là 880 mét có thể chứa lối một triệu người tập họp nơi đây, là quảng trường rộng lớn nhứt thế giới. Cuối phiá Nam quảng trường có Đại Tiền Môn là cửa của hoàng thành ngày xưa như một đài cao. Hoàng thành ngày trước là một khu hình chữ nhật rộng 50 kí lô mét vuông có bức tường thành cao dài 30 km bao bọc nhưng tường này đã bị phá bỏ vào những năm 1960 để mở rộng thành phố Bắc Kinh. Cửa chính Đại Tiền Môn chỉ dành cho nhà vua ra vào. Phiá Bắc Đại Tiền Môn là một toà lầu đài khác có tên là Vương Chính Môn là nơi các tiểu vương, quan trấn các địa phương về trú ngụ chờ vào yết kiến nhà vua. Cách một khoảng đất trống về phiá Bắc là nhà tưởng niệm Mao Trạch Đông được xây năm 1977 một năm sau khi họ Mao chết, bên trong chia ra Bắc Đại Sảnh, Nam Đại Sảnh, nơi đây có để xác ướp của Mao cũng là một nhà bảo tàng trưng bày hình ảnh, tư liệu cuộc đời của Mao Trạch Đông cũng như của Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức. Phiá trước ngôi nhà hình vuông tường trắng này hôm chúng tôi tới thì hàng ngàn người đang xếp hàng rồng rắn để vào xem, họ đi thành từng nhóm đông nhiều khi mặc đồng phục từ các điạ phương xa xôi về tham quan. Vé vào tham quan là 15 yuan nhưng có lẽ miễn phí đối với các đoàn thể trong nước.



Phiá trước nhà kỷ niệm Mao Trạch Đông cũng là tâm điểm quảng trường là tháp bia tưởng niệm “anh hùng nhân dân” đã bỏ mình cho đất nước Trung Hoa từ 1840 cho đến ngày hồng quân của Mao Trạch Ðông chiếm chính quyền năm 1945, tháp được gọi một cách nôm na là Đài Liệt Sĩ được xây từ năm 1952 đến 1958 cao 36 mét bằng đá hoa cương (granite) lấy từ Thanh Ðảo (Qingdao). Bên phiá Tây của quảng trường là tòa nhà Đại Sảnh Nhân Dân tương tự như tòa nhà quốc hội. Ngôi nhà lớn này được xây năm 1958 và hoàn tất kỷ lục trong vòng 10 tháng. Toàn bộ sảnh đường có tất cả 300 gian phòng, trong đó có gian Vạn Nhân Đại Sảnh là phòng họp có thể chứa đến 10 ngàn người, Yến Hồ Đại Sảnh chứa 7 ngàn người và tòa văn phòng ủy ban quốc hội. Ngoài ra còn có Hội Nghị Sảnh mà mỗi gian phòng tiêu biểu cho một tỉnh hay một khu tự trị. Ðại Sảnh Nhân Dân thường được chọn để đón tiếp quốc khách (Tổng Thống Richard Nixon có dự đại yến ở đây năm 1972) hay các buổi lễ tưởng niệm như mới đây làm lễ tưởng niệm cho Hồ Diệu Bang qua đời năm 1989, cái chết của ông châm ngòi cho biến cố Thiên An Môn. Ông này được coi như là ủng hộ sinh viên trong phong trào đòi tự do dân chủ nên bị Ðặng Tiểu Bình cất chức Tổng Bí Thư Ðảng năm 1987. Việc tưởng niệm ông đánh dấu Hồ Cẩm Ðào muốn phục hồi danh dự cho ông vì ông đã từng tiến cử  Hồ với Ðặng Tiểu Bình từ đó Hồ mới đạt đến nấc thang chính trị cao nhứt như ngày nay. Đối xứng với tòa quốc hội phiá Đông là Viện Bảo Tàng Quốc Gia, Lịch Sử và Cách Mạng, trong đó không biết có gì giá trị đáng xem không mà không có trong chương trình các Tour du lịch và cũng ít tài liệu du lịch nào nói tới!



Đại lộ Trường An với xe cộ đông đúc từ xe đạp cho tới xe chở hàng chạy ngang quảng trường và ngăn cách quảng trường với Thiên An Môn. Du khách từ quảng trường dùng con đường hầm vượt qua phiá dưới đại lộ Trường An để qua Thiên An Môn. Trước Thiên An Môn có 7 cây cầu bắt qua con kinh thoát nước nhỏ. Thiên An Môn là một kiến trúc đồ sộ uy nghi đậm nét Trung Hoa với tầng lầu mái kép lợp ngói lưu ly màu vàng phiá dưới toà nhà là một bức tường thành cao màu đỏ có 3 cửa ra vào. Hiện nay du khách chỉ đi cửa chánh mà ngày xưa dành cho vua đi còn hai cửa  bên đóng kín. Phiá trên cổng chính treo bức hình lớn chân dung Mao Trạch Đông được vẽ bằng tay với tóc chải ngược nét mặt hồng hào phương phi với nốt ruồi trên mặt. Theo ông Lương Kiện là hướng dẫn viên đoàn du lịch cho biết hiện nay hình ảnh của Mao Trạch Đông chỉ còn được treo duy nhất nơi đây. Kiểm nghiệm thấy ông nói đúng vì sau đó suốt chuyến đi từ Bắc xuống Nam gần khắp nước Trung Hoa chúng tôi không còn thấy hình ảnh của Mao Trạch Đông treo bất cứ nơi đâu nữa. Ðó là đường lối của đảng CS Trung Quốc hiện nay thống nhất không muốn đề cao, tôn sùng bất cứ một cá nhân nào. Hai bên hình Mao là hai khẩu hiệu “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc muôn năm” và “Tình đoàn kết của nhân dân thế giới muôn năm”. Thiên An Môn được xây năm 1417 đặt tên là Thừa Thiên Môn và việc xây kéo dài suốt 3 năm liền dưới thời Chu Ðệ Vương là vua thứ ba nhà Minh còn có hiệu là Vĩnh Lạc, người đã dời đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh. Năm 1651 Thiên An Môn được tu sửa lại và đổi tên thành Thiên An Môn có nghĩa là “cổng trời bình an”. Trước 1988 tầng lầu của Thiên An Môn là chốn nghiêm ngặt chỉ những buổi duyệt binh, tầng lớp lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đứng trên đó như  lễ đài để chứng kiến duyệt binh. Ngày 1-10-1949 Mao Trạch Ðông đã đọc bảng tuyên ngôn thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bắt đầu từ 1-1-1988 tầng lầu Thiên An Môn được mở cửa cho mọi người lên xem sau khi đã mua vé lên tham quan là 15 yuan.



Quảng trường Thiên An Môn đã từng chứng kiến những biến chuyển của lịch sử Trung Quốc như thay triều, đổi ngôi, những biến cố trọng đại mà ta nhận thấy toàn là biểu dương lực lượng, chống đối chính quyền như:



-         Phong Trào Ngũ Tứ phát động ngày 4-5-1919 là phong trào vận động dân tộc đầu tiên do sinh viên Bắc Kinh phát động rồi lan tràn khắp nước để phản đối hội nghị Versailles cho Nhật hưởng những quyền của Đức ở Sơn Đông.



-         Cuộc Phản Ðế toàn quốc ngày 30-5-1925 nhân vụ thãm án Ngũ Châu, tẩy chay ngoại nhân, đình công



-         Năm 1935 học sinh sinh viên triệu tập quần chúng mít tinh, diễn hành



-         Tháng 3 năm 1976 sau khi Chu Ân Lai chết sinh viên và dân chúng tập trung đông đảo để tưởng niệm Chu Ân Lai, ủng hộ Ðặng Tiểu Bình vừa bị nhóm Tứ Nhân Bang gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Dương Văn Nguyên áp lực với Mao Trạch Ðông cất chức Tổng Bí Thư Ðảng. Ngày 4-4-76 số người biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người. Giang Thanh ra lệnh đàn áp và bà ta đứng trong Ðại Sảnh Nhân Dân nhìn ra quan sát. Ðến ngày 9-9-1976 Mao Trạch Ðông qua đời.



-         Biến cố Thiên An Môn 1989: sau khi ông Hồ Diệu Bang chết ngày 15-4-1989 sinh viên tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn làm lễ tưởng niệm vì ông này năm 1986-87 đã ủng hộ sinh viên đòi cải tổ dân chủ và bị Đặng Tiểu Bình cách chức Tổng Bí Thư. Rồi những cuộc tập trung của sinh viên ở quảng trường tăng dần có lúc lên đến hàng trăm ngàn người để chống đối chính quyền và đòi hỏi tự do dân chủ. Ngày 4-6-1989 quân đội với xe tăng được đưa ra quảng trường để đàn áp biểu tình đưa đến vụ thãm sát hàng trăm sinh viên (có dư luận nói là hàng ngàn).



Ngày nay Thiên An Môn là biểu tượng cho Bắc Kinh và Bắc Kinh là diện mạo của Trung Quốc. Vì vậy Thiên An Môn là trái tim, nhịp đập của đất nước Trung Quốc bao la và đông dân nhất thế giới (1 tỷ 300 triệu). Vì là một địa điểm rất nhạy cảm về chính trị nên hàng ngày cả nước theo dõi nhìn về quảng trường Thiên An Môn để nghe ngóng, hy vọng, suy đoán vận mệnh đất nước và tiên liệu tương lai cho chính mình.



Buổi sáng hôm chúng tôi đến mọi sự có vẻ yên bình mặc dù mọi người đổ xô ra đó rất đông, du khách ngoại quốc vô tư quay phim chụp hình còn những đoàn thể dân quê, công nhân, học sinh cả đời mới được viếng Bắc Kinh một lần nên hồ hỡi, phấn khởi trông thấy. Công an thường phục thì mình không biết nhưng công an trong lễ phục không đông lắm, tất cả đều trẻ dưới 30 dáng người cao ốm và có vẻ hiền lành, không phản đối khi bị chụp hình. Với cặp mắt chuyên môn của họ, biết ai là du khách, ai là dân quê và những ai cần phải để ý, theo dõi. Có lẽ vì đề phòng biểu tình nhất là đối với môn phái Pháp Luân Công nên chính quyền cấm không cho xe buýt chạy trên đại lộ Trường An trong đoạn quảng trường Thiên An Môn vì với 10 xe buýt đổ xuống một lượt là đã có 570 người có mặt ngoài đó. Dân chúng có vẻ tự do, muốn làm gì cũng được miễn đừng tham gia chính trị. Tôi thấy có nhiều dân “vô sản chuyên chính” không nhà (homeless) nằm trùm túi ngủ, ngủ say sưa bên cột đèn, bồn hoa giữa quảng trường Thiên An Môn mà công an làm ngơ không nói gì! Có hai vợ chồng trẻ đẩy xe trên đó có đứa con gái hơn một tuổi và một túi xách đựng quần áo, cả ba ăn mặc tươm tất nhưng đen đúa và có vẻ lâu ngày không tắm rửa. Trên những cột đèn chiếu sáng đều có gắn nhiều máy thu hình quảng trường để công an ngồi trong một căn phòng nào gần đó theo dõi đám đông đang rảo bước trên quảng trường. Ða số người đến quảng trường là họ sẽ vào cổng Thiên An Môn để viếng Tử Cấm Thành một nơi mà trước 1988 họ mơ ước nhưng không thể nào đặt chân tới được. Hôm tôi đến về phiá Ðông quảng trường trước Nhà Bảo Tàng Cách Mạng người ta trưng bày một khán đài toàn hoa đủ màu sắc với hình những qủa banh bóng tròn và kết hoa với dòng chữ “One World – One Dream” (Một thế giới - Một giấc mộng) để chào mừng Thế Vận Hội 2008 mà Bắc Kinh được chọn để đăng cai tổ chức lần đầu tiên.



Khẩu hiệu “Một Thế Giới - Một Giấc Mộng” cho thấy Trung Quốc ngày nay chọn con đường hội nhập với thế giới bên ngoài. Nhưng người Trung Hoa lúc nào cũng quan trọng đối với chữ  nghĩa và hay chơi chữ. Vậy “Một Giấc Mộng” mà Trung Quốc muốn thế giới có là giấc mộng gì? Giấc mộng Tư Bản mà Ðặng Tiểu Bình áp dụng hay Cộng Sản đại đồng như Mao đã từng hô hào ngoài miệng ? Họ không xác định mà để lững lờ, ai muốn hiểu sao cũng được!









CHƯƠNG 7

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH






CHƯƠNG 7

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH



Vạn Lý Trường Thành dài 3,946 miles (6,350 km) chạy từ Liêu Đông gần biên giới giáp Mãn Châu ở phiá Ðông đến Cam Túc, Hoàng Hà về hướng Tây là công trình kiến trúc vĩ đại nhất thế giới. Sử sách không ghi rõ được xây từ năm nào nhưng người ta đã thấy nó từ năm 656 trước Tây Lịch thời Xuân Thu Chiến Quốc. Qua các triều đại Tần, Tề, Sở, Ngụy, Yên, Triệu, Trung Sơn đều tu bổ và xây thêm để ngăn chận giặc Hung nô từ phương Bắc. Nhà Hán và nhà Minh có công rất nhiều trong việc xây trường thành.



Gần Bắc Kinh có 3 địa điểm để viếng thăm Vạn Lý Trường Thành là Bát Đạt Lĩnh (Badaling) , Mộ Điền Cốc (Mutianyu) và Tư Mã Đài (Simatai). Ðoạn Vạn Lý Trường Thành Bát Ðạt Lĩnh nằm về hướng Tây Bắc trên dãy núi Thái Hà cách Bắc Kinh 60 km được xây từ năm 1505 thời vua Chính Đức nhà Minh. Bát Ðạt Lĩnh là vị trí chiến lược phòng thủ cho thành Bắc Kinh vì nằm ngay phiá Bắc của đèo Cư Dụng Quan (Juyongguan), phòng tuyến Bát Ðạt Lĩnh mất, địch quân có thể tràn vào đường đèo mà kéo xuống Bắc Kinh. Trường Thành Bát Đạt Lĩnh dài 4,770 mét nằm vắt vẻo qua vùng núi trùng điệp nối nhau bằng 19 tháp canh hiện là một đoạn Vạn Lý Trường Thành tiêu biểu thường xuyên được gìn giữ bảo trì. Còn những đoạn khác xây qua những vùng núi xa xôi hiểm trở bị bỏ phế hoang tàn, dây leo cỏ mọc hoặc dân làng làm sân phơi lúa tiểu mạch.



Vạn Lý Trường Thành Bát Đạt Lĩnh nằm trên cao độ 600 mét, công trình nơi đây gồm có: tường thành, đài thành, phong hỏa đài và tháp canh. Đầu tiên năm 1505 chỉ xây đài thành và phong hỏa đài trên nền cũ tường thành do Tần Thủy Hoàng xây. Ðến năm 1571 xây tiếp những tường thành nối liền các phong hỏa đài lại với nhau tạo thành một dãy tường thành chạy ngoằn ngoèo như con rắn qua các ngọn núi mà mỗi ngọn là một tháp canh. Tường thành cao trung bình 7.5 mét, dầy 4 mét, chiều rộng phần đáy 6.5 mét và chiều rộng bên trên 5.8 mét đủ rộng cho 10 quân sĩ dàn hàng ngang hay 6 con ngựa cùng đi một lúc. Vật liệu xây là đá tảng xây tường và gạch nung lót lối đi và chất kết dính làm bằng vôi và mật mía thay thế xi măng. Phiá trên tường thành còn xây thêm mỗi bên một tường thấp cao 1 mét với nhiều lỗ vuông châu mai để đặt súng thần công chống quân địch phiá dưới tràn lên. Mỗi khi quân địch xuất hiện, lính trên tường thành đốt khói bằng phân chó sói nếu là ban ngày và ban đêm thì đốt lửa. Từ năm 1468 những ước hiệu đã được đặt ra: một phát súng và một ngọn lửa hay cột khói là báo hiệu có 100 địch quân, 2 phát súng và 2 điểm lửa hay khói là có 500 địch quân và 3 phát súng là hơn 1,000 quân địch. Những phong hỏa đài khi nhận đuợc tín hiệu từ đài bên ngoài liền lập lại và cứ thế như vết loang từ ngoài vào trong và trong vài tiếng đồng hồ tín hiệu báo động có thể truyền đi 500 cây số.



Năm 1900 khi liên quân bát quốc Âu Châu tiến chiếm thành Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu bôn tẩu về phiá Vạn Lý Trường Thành. Khi tới Bát Ðạt Lĩnh bà trèo lên phóng hỏa đài để nhìn Bắc Kinh mà tiếc nuối cuộc sống xa hoa nhung lụa đã qua. Từ đó một ngọn phóng hỏa đài ở đây được đặt tên là “Bắc Kinh Vọng Thạch”.



Tường thành Bát Ðạt Lĩnh năm 1987 được Liên Hiệp Quốc phong tặng là “Di Sản Văn Hóa Thế Giới” và hàng năm được cấp ngân khoản trùng tu bảo quản từ đó chính quyền mới xây nhà bảo tàng và hệ thống xe cáp treo đưa lên ngọn núi. Giá vé tham quan Bát Ðạt Lĩnh hiện nay là 80 yuan. 



Rời lăng tẩm nhà Minh tức Thập Tam Lăng chúng tôi đi ăn trưa ở xưởng sản xuất bình đồng tráng men sứ (Cloisonne) sau đó lên xe buýt đi về huớng Tây Bắc độ 6 miles. Đây là vùng núi Thái Hà nằm trên cao độ 600 mét nên sương mù lãng đãng khắp vùng núi che mất ánh thái dương. Trời giữa Thu nên núi đồi đã ngã màu xám và một vài ngọn cây lá đã đỏ. Sau khi trả tiền lệ phí xa lộ, xe rẽ ra khỏi xa lộ nơi có bảng “Exit Badaling Great Wall”. Chúng tôi qua khu đông đúc du khách với bãi đậu xe có hàng chục xe buýt du lịch đang đậu nơi đó và tiến thẳng lên vùng cao hơn. Có lẽ địa điểm này mới mở nên vắng vẻ du khách, hai bên đường mở rộng ra làm bãi đậu xe nhưng chỉ có vài chiếc xe buýt. Sau khi ăn trưa và xe chạy chầm chậm nên ai cũng buồn ngủ và đoạn đường vài miles đó chúng tôi cũng đã “chập chờn nửa tỉnh nửa mê” nhưng khi nghe ông Lương Kiện hô lên: “Đã đến...Vạn Lý Trường Thành! Mời qúy vị xuống” thì ai cũng tỉnh giấc vì đi Trung Quốc là phải biết Vạn Lý Trường Thành! Ông Lương Kiện nói tiếp: “ Bây giờ là 3 giờ, giờ Bắc Kinh, 4 giờ 30 quý vị nhớ trở lại ngay địa điểm này”.



Chúng tôi kẻ trước người sau xuống xe, gió lạnh bần bật thổi, những người bán hàng mặt xạm nắng cũng co ro trong những chiếc áo ấm và trên đầu thì đội nón chạy đến mời mua áo thun, áo ấm, nón, quà lưu niệm. Vài người trong đoàn chúng tôi không có mang theo áo ấm nên trả giá mua ngay tại chỗ. Cô trưởng đoàn Simone Nga AV Travel vui cười khi mua được một cái mũ lông chồn kiểu người Mông Cổ, có ông thì mua áo mão vua Càn Long và đội để lên Vạn Lý Trường Thành! Nơi đây có xe cáp treo đưa chúng tôi lên một đoạn trường thành ở lưng chừng núi. Đưa vé cho người giữ cổng chúng tôi vào nhà xe cáp treo, từng xe không chạy đến, cứ 4 người vào xe và xe tự động đóng cửa lại mà không có một nhân viên nào ở đây giữ an toàn cho khách đi xe. Chúng tôi ngồi xe treo lơ lửng giữa trời, phiá dưới là núi với những lùm cây nho nhỏ, phiá trên là bầu trời xám sương phủ la đà. Xe chầm chậm lên núi độ 10 phút sau thì tới, ra khỏi nhà xe cáp và ra phiá tường thành thì gặp lại những người trong đoàn đang co ro cười nói đứng ở đó. Nhìn ra phiá xa dãy trường thành như con rắn đang nằm vắt ngang những trái núi, nhìn dốc cao đoạn trường thành gần nhất thấy người ta nho nhỏ như đàn kiến nhiều màu sắc lố nhố lên xuống từ đỉnh cao nhất là một tháp canh. Ông Lương Kiện cho biết nếu ai chọn con đường dễ đi thì đi trường thành phiá tay trái còn ai chọn con đường “chông gai” dốc đá thì đi về phía tay phải. Hình như mọi người chúng tôi đều thuộc lòng câu:

“Ví như đường đời bằng phẳng cả.

Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”

Và Mao Trạch Đông đã từng nói: “Bất đáo trường thành phi hảo hán” (không lên tới trường thành không phải là anh hùng) nên mọi người đều chọn con đường đi lên chứ không đi xuống. Và trên đỉnh núi cao có tháp canh kia mà trường thành đang bò lên là điểm đích nơi đó có dựng tấm bảng in nét chữ của Mao với câu vừa nói cũng như có người cấp tấm bằng “Đáo Trường Thành” với giá 30 yuan có tên tuổi và mộc son cùng ngày tháng. Chúng tôi hì hục leo lên, thấy dễ mà không dễ, leo chừng một trăm nất thì chân mỏi, gối đau, người mệt. Phải níu vào ống thanh sắt lan can đặt sát tường đá mà từng bước leo lên thật là cảnh... “mỏi gối chồn chân cũng phải trèo!” Bọn nhà Minh ngày xưa chẳng có tiêu chuẩn “standard” gì hết, nất thang nào cũng cao từ 1 feet rưỡi trở lên và lại không đều nhau, có nất cao gần 2 feet!



Trèo một đoạn trường thành đến một khoảng bằng phẳng thì dừng lại nghỉ mệt và chụp ảnh. Nghề chụp ảnh của tôi vốn đã...không khá, ốm chụp thành mập vì tôi không có theo một trường lớp nào chỉ là “tự biên tự diễn” mà hôm nay lên đến đây cảnh cần chụp nhứt lại mây giăng sương phủ che khuất vạn lý trường thành làm sao chụp cho đẹp được! Vừa chụp ảnh vừa thở phì phò nghỉ mệt trong khi đám du khách trẻ qua mặt vừa đi vừa cười giỡn vui vẻ ồn ào. Còn một đoạn chừng 200 bậc thang nữa đến tấm bảng “Bất đáo trường thành phi hảo hán” thì tôi đành bỏ cuộc vì sợ cố quá sẽ trở thành “quá cố”, thối lui trở xuống mà có người “xuyên tạc” chế diễu cho rằng ai lên nửa chừng mà thối lui thì không phải là “hảo hán” mà là...thối háng! Thôi cũng đành chấp nhận và làm theo lời thầy thiền sư là nhắm mắt lại, hít thật sâu, thở ra chầm chậm và...miệng mỉm cười!



Đứng trên trường thành nhìn hàng cờ đuôi nheo ngủ sắc bần bật bay trong gió, nghe tiếng gió vi vu trong chiều Thu ảm đạm mà nghe như tiếng rên than ai oán của hàng vạn sinh linh đã bỏ mình khi xây vạn lý. Vương Sơn Linh một nhà thơ thời Đường khi quá bước đến đây đã chạnh lòng cảm tác bài thơ sau:



Tỳ bà đổi tấu khúc tân thanh

Vấn điệu quan san hận biệt tình.

Biên ải nhạc sầu lan bất tận

Trăng thu biên ải phủ trường thành.



Trong thi văn VN học thời trung học cũng tả lại cảnh trống trường thành vang động và khói bốc cao báo động giặc thù đang kéo đến, người thanh niên phải giã nhà theo nghiệp đao cung để lại người chinh phụ bao năm ngóng đợi:



Trống trường thành lung lay bóng nguyệt

Khói Cam Tuyền (1) mờ mịt thức mây

Chín tầng gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh

(Chinh Phụ Ngâm – Đoàn Thị Điểm)

 (1) Một địa điểm trong tỉnh Cam Túc



Đó là cảnh chiến sĩ ra biên ải nơi trường thành ít khi trở lại. Còn hàng triệu người bị trưng tập đập đá xây trường thành thay nhau phơi thây trên núi cao hố thẫm xác thân bị vùi chôn đâu đó. Chuyện kể rằng thời Tần Thủy Hoàng có chàng thư sinh ở xứ Giang Nam tên Vạn Hỉ Lương vừa cưới được nàng Mạnh Khương thì có lịnh vua Tần bắt đi trưng tập xây Vạn Lý Trường Thành. Thấy đã quá lâu không tin tức và muốn gửi áo ấm cho chồng, Mạnh Khương phải lặn lội đi tìm nhưng không gặp, người ta nói chồng nàng đã thác. Nàng khóc lóc thảm thiết, mặc tấm áo định mang cho chồng vào và nhảy xuống Bắc Hải tự trầm. Ngày nay ngoài cửa Ðông của Sơn Hải Quan còn ngôi miếu thờ người trinh nữ, trong miếu có hai câu đối mà người ta cho là của nhà văn Văn Thiên Tường:



Tần Hoàng an tại tai,

Vạn Lý Trường Thành túc oán!

Khương nữ vị vong dã

Thiên thu phiến thạch minh trinh.



Tạm dịch:

Vua Tần ngồi yên sao đành?

Oán xây Vạn Lý Trường Thành.

Khương nữ nàng ơi không chết

Nghìn thu bia đá chữ trinh!



Kéo dài hơn 2600 năm trải qua biết bao đời vua, người Trung Hoa đã hy sinh hàng triệu sinh linh xây Vạn Lý Trường Thành để làm một công trình quân sự hiểm hóc chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại . Đối với ngày nay công lao kia trở thành mây khói, tường đá dầy hàng chục lớp, thành cao hàng trăm thước cũng không ngăn được hỏa tiển phóng từ xa, bom nguyên tử từ máy bay dội xuống! Vạn Lý Trường Thành ngày nay chỉ để thu hút du khách nhằm thu ngoại tệ và là một nơi chốn để người Trung Hoa hảnh diện trong niềm đau xót về sức mạnh và sự hy sinh của tổ tiên họ như tấm bia có khắc 6 chữ “Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan” ở cổng vào Vạn Lý Trường Thành.









CHƯƠNG 6

LĂNG MỘ TRIỀU MINH











Thập Tam Lăng cách thành phố Bắc Kinh 50 kí lô mét về hướng Tây Bắc trong vùng thung lũng núi Thiên Thọ là khu lăng tẩm của 13 đời vua nhà Minh. Năm 1403 Chu Ðệ còn có tên là Trường Minh là vua thứ 3 sau khi lên ngôi lấy hiệu là Vĩnh Lạc bỏ Nam Kinh mà dời đô lên Bắc Kinh. Chu Ðệ phá thành cũ và xây lại thành Bắc Kinh mới, tu sửa xây thêm Vạn Lý Trường Thành và xây lăng mộ cho mình trong vùng thảo nguyên xinh đẹp rộng 120 cây số vuông, bên trong có điện thờ và tượng đồng vua Vĩnh Lạc, mộ chôn nhà vua và con đuờng Thần Lộ với nhiều tượng đá các loài linh vật. Triều Minh tổng cộng truyền được 16 đời vua, 2 đóng đô ở Nam Kinh và 14 ở Bắc Kinh.



Triều Minh cai trị Trung Quốc 276 năm (1368-1644) bắt đầu từ khi Chu Nguyên Chương xuất thân là con nhà nông nổi lên dấy binh đánh đuổi quân Mông Cổ là nhà Nguyên. Thuận Ðế, vua cuối cùng của nhà Nguyên, nửa đêm trốn ra ngoài thành, chạy lên phương Bắc qua Mông Cổ sau khi cai trị dân Hán 162 năm. Theo “Sử Trung Quốc” của học giả Nguyễn Hiến Lê: “Chu Nguyên Chương lên ngôi lấy quốc hiệu là Minh, niên hiệu là Hồng Vũ đóng đô ở Kim Lăng tức Nam Kinh ngày nay. Ông có công dẹp các vùng phương Bắc vẫn còn các tướng nhà Nguyên chiếm cứ và bọn anh hùng ở phương Nam đang chiếm Thành Ðô và đất Vân Nam. Sau cùng năm 1387 lại thu được Liêu Ðông ở phiá Ðông Bắc mà thống nhất Trung Quốc từ Bắc tới Nam, từ Tây qua Ðông. Ðó là công lớn của Chu Nguyên Chương sử sách không phủ nhận nhưng kèm theo ông là một bạo chúa, một vua Hán độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa không kém Tần Thủy Hoàng. Cũng như Lưu Bang và đa số các vua sáng nghiệp, khi thành công Chu không dùng các bạn chiến đấu nữa vì họ qúa thân với mình, họ biết sở trường cùng sở đoản của mình ra sao, khó mà trị họ. Sợ nhất là khi mình chết rồi, con mình còn nhỏ, họ chuyên quyền uy hiếp, nên ông tìm cách chia rẽ, vu hãm họ, lần lần họ bị giết hết, làm liên lụy đến mấy vạn người lương thiện nữa. Ông không khôn khéo như vua Thái Tổ nhà Tống mà tàn nhẫn vô cùng.”



Khi Chu Nguyên Chương mất năm 1398 ông lập con trưởng lên nối ngôi nhưng thái tử lại chết sớm, ngôi vua về cháu nội ông tức Huệ Ðế. Huệ Ðế lo ngại các phiến vương chư hầu mạnh thế có thể nguy hại cho triều đình trong đó có vua nước Yên tại Yên Kinh (Bắc Kinh) vốn là chú ông, con thứ của Chu Nguyên Chương. Mối nghi kỵ xích mích này dẫn đến việc vua nước Yên là Chu Ðệ đánh kinh đô và Huệ Ðế phải bôn tẩu về phương Nam và chết, rốt cục làm vua chỉ đuợc 4 năm. Chu Ðệ lên làm vua và dời kinh đô về Bắc Kinh năm 1403 để dễ dàng chống lại giặc phương Bắc là Mông Cổ, ông cho xây lại thành Bắc Kinh và Vạn Lý Trường Thành. Ðồng thời xây lăng mộ của mình trong vùng đất cây cối xanh tốt, núi non thanh tú mà ông cho là có long mạch, ngôi vua sẽ bền vững truyền được nhiều đời cho con cháu.



Sáng ngày song thập 10-10-2005 chúng tôi theo đoàn du lịch đến viếng cảnh Thập Tam Lăng trong vùng thung lũng có sông suối và núi bao xung quanh, cây cối xanh tươi. Trên đường vào lăng hai bên là vườn cây trái xanh tươi, những quán xạp bán trái cây như táo, lê và hồng trái rất to, dòn ngọt. Ðến nơi xe dừng ở bãi đậu có những dãy gian hàng bán áo thun, áo lụa in hay thêu phong cảnh và đồ kỷ niệm. Họ bày hàng dài những chiếc dù nhiều màu bên trên và nón lá phiá dưới nhìn rất vui mắt. Buổi sáng rất ít du khách nhưng dường như khu buôn bán này có luật lệ riêng nên người bán vẫn đứng phiá sau quầy hàng cất tiếng mời khách chứ không có chạy ra níu kéo mời mua. Chúng tôi đi bộ đến cổng bán vé cũng là cổng tam quan đồ sộ để vào lăng, giá vé là 70 yuan và giờ mở cửa từ 8 giờ 40 đến 4 giờ 30 chiều. Hướng về phiá Chính Lăng của vua Chu Ðệ là một tòa nhà lớn lợp ngói lưu ly màu vàng, cửa và vách gỗ sơn hồng tiá, xây trên nền cao bước lên bằng 3 lối khác nhau, mỗi lối 16 bậc thềm đá trắng. Bên trong tòa Chính Lăng rộng 1956 mét vuông gồm có 32 cột gỗ bằng cây long não cao 14 mét. Giữa lăng là tượng đồng của Chu Ðệ vạm vỡ to lớn ngồi oai nghi trên ngai vàng. Chính Lăng được Chu Ðệ cho xây từ năm 1409 đến 1427 để làm lăng cho mình và sau đó khu lăng tẩm rộng 120 kí lô mét vuông này còn chôn 12 vua dòng họ nhà Minh khác nữa.



Trong tòa nhà Chính Lăng còn trưng bày triển lãm những vật dụng vua chúa triều Minh thường dùng được chôn trong mộ vua Vạn Lịch ở Ðịnh Lăng tình cờ được phát hiện và khai quật từ năm 1957 đến 1959 khi đào để xây hồ chứa nước. Vạn Lịch hiệu là Thần Tôn lên ngôi năm 1572 là đời vua thứ 13 triều nhà Minh là vua ngự trên ngôi lâu nhất được chôn trong Ðịnh Lăng là một trong 13 lăng trong khu lăng tẩm này. Vì không muốn địch quân đào xới nên Vạn Lịch cho xây Ðịnh Lăng ngầm trong lòng đất không rõ nơi nào. Năm 1957 khi đào đất tình cờ người ta phát hiện tấm bia đá chỉ hướng cửa mộ và theo lịnh của Chu Ân Lai cho phép khai quật và khám phá dưới độ sâu 27 mét là cả một công trình lăng mộ gồm 3 cửa bằng đá chia lăng làm 3 khu vực với 5 gian phòng làm đại sảnh mà căn tiền sảnh dài 26 mét, rộng 6 mét và cao 7 mét có 3 ngai vàng bằng đá cẩm thạch. Những phòng kế tiếp là nhan đèn, những bình ngọc chứa dầu mè để thắp đèn và vật dụng, áo quần. Hậu sảnh là căn hầm cuối cùng xây rộng nhất chứa quan tài vua Vạn Lịch và hai hoàng hậu. Người ta tìm thấy nơi đây vô số những vật dụng qúy giá như vưong miện vua và hoàng hậu bằng vàng và những vật dụng, đồ trang sức bằng vàng, bạc và ngọc thạch. Ðịnh Lăng ngầm trong lòng đất vài năm trước đây mở cửa cho công chúng và du khách tham quan mặc dù xuống dưới đó ẩm thấp, thiếu dưỡng khí nên nay đã đóng cửa để tu sửa không biết đến bao giờ mới có thể mở lại?



Báu vật tìm thấy dưới mộ trong Ðịnh Lăng một số được lịnh Mao Trạch Ðông đưa vào bảo tàng viện và đem triển lãm khắp thế giới, một phần nhỏ còn lại được trưng bày nơi đây tức Chính Lăng của vua Chu Ðệ. Chúng tôi dạo bước xem những vật dụng ngày xưa được bày trong lồng kính chiếu đèn sáng có đặt những ly đựng chất chống ẩm. Những chén bát, muỗng nĩa mạ vàng, thau chậu rữa mặt bằng vàng và cẩm thạch, tiền bạc, ấn triện của nhà vua, gươm dao, áo giáp, nón sắt quân sĩ cũng được trưng bày. Long bào của vua, xiêm y của hoàng hậu, cung phi ngày xưa lá ngọc cành vàng, huy hoàng lộng lẫy ra sao nhưng bây giờ bạt màu, trông nhếch nhác dơ bẩn, kiểu cách luộm thuộm lạ kỳ! Nhất là những chiếc mũ nón to lớn rườm rà lại gắn trên đó không biết bao nhiêu trâm cài, lòng thòng dây nhợ lại xỏ vào những khúc cây tựa như mái chèo! Hoàng hậu, thứ phi ngày xưa cổ chắc cứng lắm mới có thể đội được một đống hầm bà lằng thứ ấy trên đầu? Cũng kiểu cách ấy nhưng ngay đêm nay chúng tôi được đưa đi xem show vũ nhạc “Beijing By Night”, các cô vũ công đội trên đầu bước đi tha thướt nhịp nhàng uyễn chuyễn làm sao! Y trang kiểu cách tương tợ như đưọc trưng bày ở đây nhưng được may bằng lụa Tô Châu mỏng lộ lên những đường cong kín đáo nhưng gợi tình, cổ xưa nhưng lại tân thời, khiến cho tôi muốn sống lại đời Minh làm quan làm lính gì cũng được nhưng đừng bắt tôi...gánh đá xây Vạn Lý Trường Thành!



Ra khỏi ngôi lăng Chu Ðệ bằng ngõ sau, chúng tôi đi về hướng Bắc ngang một khoảng sân rộng toàn cây giá tỵ hàng trăm năm để đến ngôi Minh Lầu. Minh Lầu có hai tầng mái ngói vàng tường đỏ được xây trên một khúc tường thành cao phải đi lên bằng những bậc thang đặt bên ngoài, thang bên trái lên và bên phải xuống. Bên trong Minh Lầu có dựng bia đá lăng mộ ghi lại lý lịch những người an táng trong lăng. Sau Minh Lầu về hướng Bắc là một ngọn đồi tròn dốc thoai thoải trồng tùng bách và giá tỵ được bao quanh bằng tường đá kín là nơi chôn Chu Ðệ vua thứ 3 nhà Minh và hoàng hậu (bị chôn sống) tôi không biết tên gì nhưng bảng đề bằng tiếng Anh thì ghi là...Xushi! Ngọn đồi quá lớn nên người ta không biết mộ 2 người chôn nơi đâu? Vua thời xưa sợ quân thù đào mả lên dày xéo xác nên rất giữ mật vị trí chôn mình. Những người tham gia việc xây mộ hay chôn cất vua có khi còn bị giết chết để giữ mật! Thời cổ khi vua chết người ta chôn sống theo nhà vua hoàng hậu, thứ phi và một số quan quân cận vệ để theo hầu nhà vua bên kia thế giới. Ðến đời nhà Tần (255-207 BC) và Hán (208 BC-220 AD) bãi bỏ tục chôn sống mà chôn “nhọng” tức tượng người bằng đất nung (như lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở Tây An). Nhà Minh phục hồi lại chế độ chôn sống, Chu Nguyên Chương chôn sống 38 người, Chu Ðệ chôn 16 người! Xác của họ có lẽ được chôn đâu đó trong ngọn đồi này? Những người bị chôn thời ấy rất bằng lòng với tục lệ quái đản đó! Ðến đời Dụ Minh vua thứ 7 mới chấm dứt tục chôn sống người.



Ngọn đồi nơi có mộ Chu Ðệ là phần đầu tiên ở về hướng Bắc của Thập Tam Lăng, sau đó chúng tôi đi về hướng Nam để đến con đường rộng rãi lát đá dài 1,700 mét. Con đường có tên là Thần Lộ (Sacred Way) chạy đúng theo hướng Bắc Nam là trục chính của Thập Tam Lăng qua một cây cầu nhỏ có tên là Di Hong Bridge và 2 cửa lớn. Hai bên Thần Lộ phiá xa bên phải hướng Tây có ngọn Hổ Sơn và bên trái hướng Ðông có ngọn Long Sơn đúng theo phép phong thủy “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ” (Rồng chầu Hổ phục). Hướng Bắc lăng là những dãy núi và hướng Nam có dòng sông nhỏ chảy qua nơi cầu Di Hồng có địa thế “Huyền Vũ” trên đầu được núi bao che và dưới chân có long mạch. Những triều đại Trung Hoa thời ấy rất sợ giặc Mông Cổ ở phương Bắc và khi mạnh luôn muốn mở mang bờ cõi về hướng Nam cho nên hoàng thành, cung điện, lăng miếu đều có cửa chính quay về hướng Nam.



Thay vì phải đi bộ trên con đường Thần Lộ dài gần 1 mile để xuống cửa Nam của Thập Tam Lăng, AV Travel sợ chúng tôi đi không nổi nên thuê xe điện đưa chúng tôi đi. Ngồi trên xe bóp còi chạy ngang qua những đoàn du khách da trắng cuốc bộ, họ vẫy tay chào chúng tôi và không biết bọn tôi là ai mà ngồi xe có vẻ “xêng xang áo gấm về làng”! Con đường Thần Lộ rất thơ mộng hai bên cỏ xanh mượt mà, hoa lá xanh tươi, liễu rũ la đà lại có những tượng linh vật xếp hàng đứng chầu hai bên. Linh vật là những con thú linh thiêng, không có ngoài đời mà chỉ có trong tưởng tượng như rồng, lân, quy và có tượng những con thú có thật như voi, ngựa, lạc đà, sơn dương. Những tượng thú này rất to lớn cao gần 4 mét bằng đá nguyên khối màu trắng, nét điêu khắc sắc sảo và dáng điệu của chúng trông dễ thương lại không kém oai phong, lẫm liệt. Tượng mỗi loại thú có hai thế đứng và nằm xen nhau trông rất ngộ nghĩnh. Xe điện đưa chúng tôi đến nửa đường thì đổ chúng tôi xuống để ngắm cảnh chụp hình, mua đồ kỷ niệm hay ghé nhà vệ sinh và xe trở lại vị trí khởi hành để đón những người còn lại trong đoàn chúng tôi. Ði hai chuyến xe điện thì chúng tôi tới cổng hướng Nam và xe buýt chờ ở đó. Cổng phiá Bắc đông người hơn, bãi đậu xe có những gian hàng bán áo và dù trong khi bãi đậu xe phiá Nam là những gian hàng bán trái cây. Môt bà bán hàng có lẽ vì ế khách nên ra khỏi quày và đến bên xe buýt cắt trái cây như lê, táo, hồng mời chúng tôi ăn thử. Tôi thử một miếng lê trắng và thấy rất dòn ngọt nhưng không biết những trái khác có ngọt như vậy không? Vì xe buýt chạy và khác ngôn ngữ  nên tôi mua không kịp, ái nái vì đã thử mà không mua, dường như bà bán hàng nói giá là 10 yuan 3 hay 4 trái gì đó!



Ðoàn du lịch chúng tôi rời khu lăng tẩm qua những vườn cây trái xanh tươi có những suối nước dọc bên đường và nơi hướng Ðông và Bắc là những dãy núi thấp. Ông Lương Kiện hướng dẫn viên của đoàn cho biết vào dịp cuối tuần người dân Bắc Kinh thường lên đây nghỉ mát và mua trái cây bằng cách vào vườn tự hái. Họ cho biết tự hái lấy sẽ chọn được trái to và chín cây mặc dù phải trả giá cao hơn.



Chúng tôi được đưa đến một xưởng làm đồ mỹ nghệ tráng men “Cảnh Thái Lam” mà nhiều người tưởng lầm là đồ gốm. Hãng có vẽ cũ kỹ, trang thiết bị nghèo nàn, vài chục công nhân nam có nữ có ngồi dùng kẹp gắn những sợi đồng với các hình hoa lá, chim chóc, núi non, tiên nữ lên vỏ bình bằng đồng. Sau đó bình được tráng lớp men bên ngoài, nung nóng cho sành chảy ra, tô màu và mài láng. Lớp men bên ngoài vỏ bình sau khi được nung rất bóng láng thường có màu xanh khói lam nên được gọi là “Cảnh Thái Lam”. Ngành mỹ nghệ này xuất xứ từ Âu Châu thời xưa được gọi là “Cloisonne” và du nhập vào Trung Quốc khoảng 500 năm về trước, thời vua Minh Cảnh (1450-1456) rất thịnh hành để trưng bày trong hoàng cung hay làm lễ vật triều cống. Trong xưởng này tất cả đều làm bằng tay trần, họ mài bình bằng máy có phun nước, bụi kim loại và nước văng tung tóe mà không có kiếng đeo mắt. Du khách ngoại quốc nhìn cảnh làm việc thiếu an toàn này với vẻ chua xót bất bình nhưng với cơ xưởng quốc doanh này đó là niềm hảnh diện của họ về sự khéo tay, cần mẫn. Hướng dẫn viên của hãng cho biết nhiều bình phải mất 4, 5 tháng mới xong. Ai cũng tin điều này vì chứng kiến cảnh những chị công nhân kiên nhẫn ngồi dán từng sợi đồng nho nhỏ như con sâu! Bước qua phòng trưng bày những sản phẩm, dưới ánh sáng của đèn chụp trên trần rọi xuống, tất cả bình hoa, chén dĩa, đôn chậu đều óng ánh lung linh rực rỡ. Nhưng giá cả cũng không rẻ cả trăm đô la một cái! Nhiều người thấy đẹp, tốn quá nhiều công lao nên không tiếc tiền mà mua giúp.



Sau khi xem những tác phẩm sành sứ mạ đồng, chúng tôi ăn trưa tại nhà hàng ngay trong xưởng. Nhà hàng quốc doanh này chắc chỉ phục vụ cho các đoàn du lịch, phòng ăn rộng lớn mấy chục bàn, cạnh chúng tôi là những đoàn khách du lịch người da trắng có lẽ Âu Châu hay Canada gì đó. Ăn trưa xong khoảng 2 giờ chiều chúng tôi lên xe đi Vạn Lý Trường Thành cách đó không xa.    







CHƯƠNG 5

ÐI MUA NGỌC THẠCH Ở BẮC KINH







Xe chúng tôi ra đến vùng ngoại ô hướng Bắc thành phố Bắc Kinh, đây là vùng nông thôn ngày xưa có những ngôi nhà tường gạch xám , mái ngói cong rất xưa cũ. David nói rằng kiểu nhà xưa trong vùng nông thôn người ta gọi là gia trang là một ngôi nhà lớn có sân rộng thường lát gạch để chứa nông phẩm như lúa mì hay bắp và xung quanh là tường gạch rất cao và một cổng trước để vào gia trang. Tường không rào xung quanh nhà mà bắt đầu từ vách tường của ngôi nhà kéo dài ra phía trước, nghĩa là bên hông hay sau nhà không có tường, có lẽ để tiết kiệm gạch làm tường. Khi con cái trưởng thành, lập gia đình ra riêng sẽ xây thêm những ngôi nhà nhỏ cũng trong sân rào đó. Cho nên trong một gia trang có nhiều gia đình thuộc nhiều thế hệ cùng cư ngụ. Ngày nay đất đai có giá, nên gia trang thay đổi không còn sân rộng nữa, nông dân bán đất xây nhà lầu có khi lên tới 3, 4 tầng và chia cho con cháu cùng ở chung trong ngôi nhà lớn đó. Bắc Kinh không thấy nhiều nhà riêng to lớn nhưng khi đi trên đường từ Hàng Châu về Thượng Hải nhà nông dân vùng này rất to lớn và trên chóp nhà thường xây kiểu tháp nhọn kiểu Tân Cương,Tây Tạng.



Xe chạy thêm 30 phút nữa khi gần đến vùng lăng tẩm triều Minh cây cối xanh tươi rậm rạp, bên xa lộ có xây một pho tượng lớn hình người cỡi ngựa. Ông Lượng Kiện cho biết đó là tượng của thủ lãnh nghĩa quân Lý Tự Thành, người đã nổi lên chống lại vua nhà Minh là Sùng Trinh vì sưu cao thuế nặng, nông dân đói khổ đưa đến việc kết thúc nhà Minh và dẫn đến triều đại Mãn Châu cai trị tức là nhà Thanh. Theo lịch sử Trung Hoa, năm 1642 Lý Tự Thành là giặc nổi lên chống triều đình và được dân chúng theo rất đông, ông ta chiếm được nhiều thành phố và kéo quân về Bắc Kinh khiến vua Sùng Trinh phải treo cổ tự vận trên đồi giả sơn phía sau Tử Cấm Thành. Lý Tự Thành lên ngôi vua nhưng chẳng bao lâu bị tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế kéo quân về đánh. Lẽ ra Ngô Tam Quế đem quân đi đánh giặc Mãn Châu là quân Thanh nhưng khi hay Sùng Trinh đã tuẩn tiết, Ngô Tam Quế liên kết với nhà Thanh để đánh Lý Tự Thành khiến Thành phải bỏ chạy ít lâu rồi bị dân làng giết chết. Theo “Sử Trung Quốc” của học giả Nguyễn Hiến Lê: “Quế hy vọng sau khi đuổi được Tự Thành rồi, nhường cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên phụ chính chú của vua Thanh bảo chưa lập lại được trật tự nên không về. Lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành đến Thiểm Tây. Trong khi đó vua Thanh mới 7 tuổi được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc Kinh, đặt lên ngai vàng.”



Có lẽ vì khi quân của Lý Tự Thành kéo về Bắc Kinh đi ngang qua vùng lăng mộ nhà Minh đốt phá cho nên chính quyền Bắc Kinh cho xây tượng nơi đây là ngả ra xa lộ để đi vào lăng nhà Minh. Lý Tự Thành là giặc loạn nổi lên chống triều đình nhà Minh nhưng với cái nhìn của nhà nước Bắc Kinh thì ông ta là anh hùng nhân dân, cầm đầu nghĩa quân chống lại chế độ quân chủ phong kiến. Trước khi vào thăm lăng nhà Minh chúng tôi được dừng lại ở một xưởng ngọc thạch, đó là chương trình sắp xếp của Sở Du Lịch nhằm kiếm ngoại tệ của du khách.



VIẾNG XƯỞNG NGỌC THẠCH

Bãi đậu xe rất đông xe buýt của những đoàn du lịch khác, chúng tôi đuợc tiếp đón và đưa vào phòng trưng bày các sản phẩm làm bằng ngọc thạch. Một cô gái nhân viên hãng giới thiệu về ngọc thạch và ông Lương Kiện dịch lại. Cô ta nói rằng ngọc thạch được gọi là “phĩ thúy” là một loại đá qúy và cứng chỉ đứng sau kim cương mà thôi. Người ta dùng ngọc thạch để cắt kính và dùng làm đồ trang sức vì màu sắc ngọc thạch sáng óng ánh. Ngọc thạch tùy theo phẩm chất được chia làm 3 hạng A, B và C. Cô ta đưa lên một vòng đeo tay màu xanh lá cây đậm và cho biết đây là ngọc thạch hạng A rất cứng càng đeo lâu màu càng đậm và nên đeo bên tay trái vì gần tim, giúp tim...điều hòa nhịp đập. Cô nói rằng hãng này rất nổi tiếng về ngọc thạch đã kinh doanh hơn 30 năm và hàng toàn là hàng thật. Cô treo chiếc vòng bằng một sợi chỉ và bật quẹt đốt sợi chỉ quấn quanh chiếc vòng nhưng chỉ không cháy! Cô nói vì ngọc thật nên chỉ không cháy. Cô ta giới thiệu một chiếc gối hình hộp chữ nhật dài dài được kết bằng hàng trăm viên đá cẩm thạch vuông vuông. Cô ta nói rằng ngủ trên chiếc gối này sẽ an thần, chữa được bịnh đau đầu, khi ngủ chân phải ấm, đầu phải mát thì mới tốt cho sức khỏe và chiếc gối đá này giúp cho có một giấc ngủ ngon lại còn chữa được bịnh cao máu và tiểu đường. Cô ta giới thiệu một tượng củ cải làm bằng cẩm thạch trắng, cô nói củ cải tiếng Phổ Thông đọc lên âm nghe giống như là “chiêu tài” có nghĩa là “chiêu mộ tài sản”, mua về trưng bày trong nhà rất may mắn, những người chơi mạt chược có củ cải này sẽ rất hên, đánh đâu thắng đó! Trong đoàn có người cất tiếng: “Ai thường đi Las Vegas nên mua củ cải này mang theo. Củ cải còn tất cả đều còn!” Cô ta nói qúy vị cứ mua nhiều đi vì hôm nay bổn hãng sẽ giãm giá 10% cho du khách...Hoa kiều hải ngoại, những vị nào mua nhiều lại còn đuợc tặng quà!



Vừa dứt màn giới thiệu là các bà trong đoàn nô nức, ơi ới gọi nhau đi vào các phòng trưng bày mà xem và hỏi giá cả này nọ. Thấy tôi không mua gì (vì biết gì mà mua) nên có bà hỏi tôi để đổi đô la ra tiền Trung Quốc vì ở khách sạn bà đổi có 100 đô đã xài hết rồi! Tôi nói tôi đổi không được vì...không có license đổi tiền mà chỉ cho mượn thôi nhưng cho mượn thì phải...có lời! Bà cười cười rồi bỏ đi luôn! Vì biết trước là nói thách, các bà cũng trả giá dữ lắm! Có nhiều chiếc vòng đeo tay đề giá 1,000 US$ các bà rất vui mừng khi mua được có... 200$. Các bà khác khen lấy khen để nào là vòng đẹp quá, trong Phước Lộc Thọ chắc cũng 5, 6 trăm là giá chót! Sau này đi chỗ khác, vòng tương tự như vậy có người mua có 50$! Bà đã từng mua chiếc vòng 200$ thấy mình đã mua hớ nhưng biết đâu vòng mình mua là đồ thật  không phải đồ nhuộm, đồ sơn? Bây giờ thấy cũng đẹp và giá quá rẻ nên lại mua thêm. Vì vậy ông Lương Kiện mới nói “Càng mua càng hố, càng hố lại ...càng mua! Nhưng cứ mua những gì mình thích để sau này khỏi hối tiếc những gì mình thích mà không mua!”



Du lịch Trung Quốc thường hay kèm theo màn đưa vào các cửa hàng cẩm thạch, ngọc trai, tranh vẽ, tranh thêu, đồ xứ, lụa mền...và Tour của chúng tôi lần lượt cũng đi qua hết các cửa hàng đó. Cẩm thạch thì qua 3 cửa hàng, một Bắc Kinh như kể trên, một ở Lạc Dương gần chùa Thiếu Lâm Tự và một ở Hàng Châu. Ðó là chính sách của nhà nước nhằm thu ngoại tệ của du khách thông qua các công ty du lịch. Công ty du lịch địa phương có nhiệm vụ phải đưa các đoàn du khách đến và để đãi ngộ những hướng dẫn viên du lịch đưa đoàn đến cửa hàng của mình nhiều công ty trao tay tiền trà nước cho các hướng dẫn viên, có nơi còn chia hoa hồng phần trăm tùy theo số tiền cửa hàng bán được cho đoàn du khách hôm đó. Nhà nước đặt vấn đề bán hàng cho du khách lên hàng quốc sách, nói theo Ðặng Tiểu Bình: “Khách trắng, khách đen, miễn qua Trung Quốc là được!” nên có nhiều Tour du lịch Trung Quốc giá rất rẻ như ta thấy quảng cáo “799$ Tour Trung Quốc 8 ngày” hay “999$ Tour Trung Quốc 10 ngày” bao gồm máy bay khứ hồi, khách sạn, đưa đi tham quan và ăn ngày 3 bữa trong khi nội vé máy bay đã hơn 900$ rồi! Có thể nhà nước bù lỗ và lấy lại sau vì biết rằng du khách qua Trung Quốc thì tiêu tiền ít nhất cũng vài trăm đô và hơn phân nửa du khách xài trên một ngàn đồng.



Hàng hóa Trung Quốc giá rất rẻ vì dân đông giá nhân công rẻ và mẫu mã kiểu cách hợp nhản quan của người Á Ðông. Vì hết đồ mặc mà bỏ giặt trong khách sạn rất đắt tiền nên tôi đi tìm mua quần áo. Quần áo kích thước nhỏ nhắn nên đối với người VN khi đi mua rất dễ lựa chọn và người bán hàng hòa nhã, kiên nhẫn chìu ý khách hàng họ sẳn sàng lên lai quần tại chỗ mà không tính tiền thêm. Tôi cẩn thận lựa sao cho kiểu cách đơn giản không có hoa lá cành để về còn mặc bên Cali chứ không thì người Bolsa tưởng tôi là người Trung Quốc sang bán thuốc cao đơn hoàn tán! Có một vấn đề mà khắp nơi trên đất nước Trung Hoa đi mua hàng đâu cũng gặp là giá cả không nhất định, người bán thường nói thách với giá cả trên trời dưới đất mà người muốn mua cần phải biết trả giá không thôi sẽ mua hớ và lẽ đương nhiên là mua rồi không được đổi hay trả lại.



“DU LỊCH DÍNH CHẤU”

Theo báo chí trong nước kể lại: Ở những thành phố thuộc các tỉnh phiá Nam Trung Quốc sát biên giới VN như Quảng Tây, Vân Nam nổi tiếng về thuốc Bắc. Các đoàn du lịch người Á Châu thường được đưa vào những “trung tâm y dược cổ truyền”. Sau khi mời du khách an vị và uống trà sâm, đại diện công ty dược phòng giới thiệu về sự nổi tiếng của công ty và những loại thuốc đặc chế của dược phòng  như thuốc trị cao máu, cao mỡ, tiểu đường, viêm gan, yếu thận, đau bao tử, nhức mõi, đau khớp xương, tăng cường trí nhớ...toàn là những bệnh mà người cao tuổi thường gặp phải. Du khách sẽ được các cô mời ngâm chân trong chậu nước nóng pha dược liệu thơm mùi thuốc Bắc và một ông y sĩ mặc áo blouse trắng cầm tay bắt mạch. Sau vài phút xem mạch thì người nào cũng đều có bệnh và được ông y sĩ kê toa. Khi hốt thuốc thì giá mỗi thang đều xấp xỉ gần trăm đô la và muốn hết bịnh phải uống 5 thang trở lên! Còn những hộp thuốc đã bào chế sẳn, rẻ nhất cũng phải vài chục. Nhiều người nể tình vì cung cách tiếp đãi nên cũng mua vài hộp thuốc bổ loại rẻ nhất. Báo Người Lao Ðộng tường thuật đoạn cuối như sau:



“Anh Đ. trong đoàn không hiểu vì sao lại trở nên âm thầm, ít nói cười hơn mọi bữa! Té ra anh lặng lẽ khám phá cái điều mà không một ai trong đoàn để ý và không một ai mong điều tồi tệ ấy xảy ra? Anh mang hộp thuốc “Quy Lộc Bổ Thận Hoàn” đã mua giá 300.000 đồng VN có công dụng chữa thận, gan suy thoái, đau lưng, mỏi gối... vào Nhà thuốc Khâm Hải Đường, đối diện siêu thị Bách Hội hỏi cô nhân viên bán thuốc nói rất sõi tiếng Việt về giá thuốc. So sánh hai hộp thuốc cùng tên, một của Đức Nhân Ðường, một của nhà thuốc Khâm Hải Ðường thì thấy bao bì mẫu mã, số đăng ký y tế quốc gia... không có gì khác. Thuốc thật nhưng giá chênh lệch nhau đến 20 lần! Giá hộp thuốc “Quy Lộc Bổ Thận Hoàn” ở nhà thuốc bán chỉ có 15.000 đồng VN! Anh Đ. gọi vài người trong đoàn cùng vào nhà thuốc kiểm chứng, đối chiếu, so sánh giá một vài loại thuốc khác thì thấy thuốc mình đã mua đều có giá cao, gấp từ 15 đến 20 lần giá thuốc ở Khâm Hải Ðường! Trong đoàn bắt đầu râm ran chuyện mua phải giá thuốc... chót vót phát khiếp, phát tức! Có người xâu chuỗi các sự kiện lại để chứng minh rằng mình đã bị... gài thế: Tại sao phải vào nghe giới thiệu dược liệu trước, tại sao cô hướng dẫn viên lại hào phóng chiêu đãi món gà hấp cho đoàn ăn trưa...



Có người lẳng lặng... gặm nhắm nỗi đau bị hớ mà không hề hé miệng. Thiệt là “có những niềm riêng một đời câm nín”! Có người nổi nóng rủa thành tiếng cô hướng dẫn viên chơi ác, các thầy thuốc Trung Quốc ở Đức Nhân Ðường chẳng phải... lương y! Số đông đề nghị tôi phải... lên tiếng để giúp bà con mình có sang du lịch Đông Hưng thì tránh sa vào bẫy của những kẻ làm ăn gian dối, ma mãnh đã cấu kết nhau hưởng lợi trên những đồng tiền cắc ca cắc củm của những viên chức thu nhập thấp, người lao động nghèo thích du lịch đó đây rất thật thà, nhẹ dạ...



Hôm sau, vào chợ trung tâm Móng Cái, Quảng Ninh, thấy bà con người Việt mình du lịch chuẩn bị sang Đông Hưng, không ai bảo ai, nhiều người trong đoàn chúng tôi đều nhắc bà con phải đề cao cảnh giác khi vào Đức Nhân Ðường và nếu có mua hàng gì ở chợ thì nhớ trả giá thật thấp kẻo... dính chấu!”



Trung Quốc hiện nay có một nền kinh tế phát triển nhanh nhứt thế giới, đã cải tiến về nhiều mặt nhưng trong ngành du lịch còn hai vấn đề “bức xúc” mà khi đi Trung Quốc về nhiều người vẫn than phiền là nhà vệ sinh vẫn...mất vệ sinh và hàng hóa vẫn còn nói thách. Cùng một món hàng nhưng có nhiều giá khác nhau! Có lẽ đó là chỉ thị của nhà nước: “Cứ nói giá cao, bán được thì tốt, nếu không thì giá nào có lời là bán!”