CHƯƠNG 27
HÀNG CHÂU TỈNH CHIẾT GIANG
Người Trung Hoa có câu
“Thượng hữu thiên đàng, hạ hữu Tô, Hàng” có nghĩa là “Trên trời có thiên đường,
dưới đất có Tô Châu và Hàng Châu” để ca tụng vẻ đẹp thành phố Hàng Châu. Hàng
Châu (Hangzhou) là thủ đô đồng thời cũng là trung tâm chính trị, kinh tế và văn
hoá của tỉnh Chiết Giang (Zhejiang) nằm cuối đầu phiá Nam của Đại Vận Hà là con
kinh đào nối liền Bắc Kinh với Hàng Châu sau khi đi qua Nam Kinh và Thượng Hải
và Hàng Châu chỉ cách Thượng Hải 150 km . Với cảnh thiên nhiên núi non, sông hồ
xinh đẹp và một di sản văn hóa lâu đời, Hàng Châu là một nơi chốn mà du khách
không thể nào bỏ qua khi viếng Trung Quốc.
Buổi chiều mùa Thu ngày
17-10-2005 từ Quế Lâm dưới miền Nam chúng tôi đáp máy bay hãng Shandong
Airlines để đến Hàng Châu. Dưới nắng chiều vàng vọt từ trên cao nhìn xuống khi
gần tới Hàng Châu là dãy núi trùng điệp và những con đường ngoằn ngoèo phiá
dưới. Phiá Tây Nam Hàng Châu là vùng núi nhưng hướng Ðông Bắc là vùng đồng bằng
ra tới Thượng Hải. Rồi nhà cửa đông đúc như bàn cờ và phi trường Xiaoshan của
Hàng Châu nằm ở phiá Đông của thành phố chầm chậm hiện ra. Phi cơ đáp khá êm và
đây là chuyến phi cơ thứ ba cũng là chuyến bay cuối cùng của chúng tôi trong
nội địa Trung Quốc. Chúng tôi sẽ ở Hàng Châu 2 đêm và Thượng Hải 3 đêm nữa, rồi
sẽ trở về Hoa Kỳ. Lấy hành lý ra, gặp hướng dẫn viên địa phương là một anh
chàng cao ốm tên Johny thì trời đã tối. Johny có vẻ nghệ sĩ bụi đời, tính tình
hệch hạc, sau mỗi câu nói đều cười khặc khặc vài tiếng. Để vào Hàng Châu xe
chúng tôi phải đi qua khu công nghệ và chế xuất mới vừa thành lập có vẻ còn
hoang vắng thưa thớt các hãng xưởng. Một mùi hôi thối phảng phất trong xe và
Johny cho biết đó là mùi phát ra từ nhà máy lọc nước cống. Xe chúng tôi qua cây
cầu bắt ngang sông Tiền Đường (Qiantang) là dòng sông nơi Thúy Kiều nhảy xuống
toan kết liễu cuộc đời truân chuyên của mình nhưng may nhờ có ông lão chèo
thuyền cứu kịp. Qua khỏi cầu đi vào trung tâm thành phố đèn điện sáng choang,
xe cộ dập dìu đúng như câu “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. Xe ghé vào một
nhà hàng lớn ăn tối với những món ăn đặc sản miền Hàng Châu như thịt kho Tô
Ðông Pha (Su Dongpo). Món này mỗi người một thố đựng 3 miếng thịt vuông đỏ sậm
nửa nạt nửa mỡ, kho rục rất mềm trong thứ nước tương xì dầu ngọt ngọt. Thịt kho
này ăn rất bắt cơm, thịt ngọt mềm nhưng không bủn và lớp mỡ bên trên với da thì
béo nhưng không ngậy, giống như món thịt kho Tàu của VN ta thường ăn trong mấy
ngày Tết và có lẽ món thịt kho VN xuất xứ từ món này nên có tên là thịt kho
Tàu. Món thịt kho này có lịch sử hơn 900 năm do ông Tô Ðông Pha thi sĩ đời
Ðường...pha chế để chiêu đãi dân công đào Tây Hồ thêm sâu trong thời ông là
quan trấn nhậm Hàng Châu. Một món khác cũng nổi tiếng của Hàng Châu là món cá
chép (carp, còn gọi là cá lý ngư) bắt ở Tây Hồ chiên dòn ăn với sốt chua ngọt
làm bằng dấm và đường. Món này dân Hàng Châu gọi là món “Tình người em dâu đối
với ông anh chồng” theo truyền thuyết thời Nam Tống có một phụ nữ tên Thị Tống
sáng chế ra món đặc biệt này để nuôi ông anh chồng vì ông này bịnh không ăn
được những món thông thường! (Có lẽ ông anh này độc thân nên cô em dâu trong
nhà phải lo lắng luôn?)
Ngoài ra còn nhiều món đặc
sản của Hàng Châu trong đó có món “Gà Ăn Mày” (Beggar’s chicken), gà được nuôi
béo mập và mềm, bao trong lá sen rồi nướng trên lửa than. Khi chín thịt mền
nhưng xương dòn như sụn, ăn luôn cả xương. Món này chúng tôi không ăn vì nghe
nói gà nuôi trong chuồng kín không thấy ánh sáng mặt trời, để cho thiếu sinh tố
D và cho ăn không có chất vôi để xương gà mềm rụm. Gà đi không nổi chỉ lê lết
nên gọi là “Gà Ăn Mày”! Không ăn món này là vì mới nghe nói cách nuôi phản
thiên nhiên và người nuôi hành hạ súc vật đã ơn ớn làm sao nuốt được!
Ăn tối xong chúng tôi đến
khách sạn Ramada Plaza ngày trước có tên là Haihua Hotel, gần đây liên doanh
với hệ thống khách sạn Ramada nên đổi tên là Ramada Plaza là khách sạn hạng 4
sao nằm cách Tây Hồ chỉ một con phố. Xe vừa ngừng trước khách sạn là những
người đạp xe đạp tràn tới bao vây. Tôi không biết có chuyện gì thì ông Lương
Kiện là hướng dẫn viên cho biết đó là những người bán bóp xách của phụ nữ đồ
hiệu như LV, Channel nhưng là hàng nhái, hàng giả họ chở trên xe đạp và tay cầm
hàng giơ cao mời mua. Mấy tháng trước còn khu chợ trời hàng giả, chỉ bán ban
đêm nhưng nay đã bị dẹp nên họ phải bán trên xe đạp di động để tránh công an.
Lấy phòng xong và chờ hành lý
đem lên là chúng tôi vọt ngay ra phố thì gặp 3 người nữa trong đoàn (một đôi vợ
chồng và một cô độc thân) cũng lang thang ngoài phố, thế là chúng tôi nhập bọn
cho vui. Đối diện khách sạn là một department store có nhiều tầng, vào thử thấy
bán nhiều quần áo, giày bóp nhưng giá không rẻ. Chúng tôi theo con đường lớn
trước khách sạn là đường Qingchun Road đi về hướng Ðông mà tôi tưởng là hướng
Tây để định ra Tây Hồ xem cảnh Tây Hồ liễu rũ thơ mộng thế nào? Hướng Ðông đi
vào trung tâm thương mại, những dãy phố từng căn một, có cửa hàng 2 căn và có
vài thương xá lớn cũng bán quần áo, giày dép giá cả khá rẻ, một cái áo sơ mi
dài tay độ 3 USD, quần tây 7 USD. Ba bạn trong đoàn mua nhưng tôi vì lười biếng
phải vào phòng thử lôi thôi nên không mua. Ði dạo phố khá xa mà không thấy Hồ
Tây nên tôi biết là đã lộn hướng bèn nói với các bạn đi ngược trở lại bằng cách
lên cầu băng qua con đường. Dãy phố bên này có tiệm sách ngoại ngữ rất lớn, một
cửa hàng kim hoàn sang trọng sàn lát đá hoa cương (granite) có an ninh mặc đồng
phục gác trong ngoài nhưng bên trong tiệm đóng kín cửa mà không có máy lạnh nên
nóng và ngộp qúa mặc dù ban đêm gần 9 giờ. Về đến khách sạn Ramada Plaza thì 3
bạn kia vì mua sắm xách đồ nhiều quá nên không chịu đi tiếp ra Tây Hồ và nói
chúng tôi cứ đi đi, bỏ đồ vào phòng xong họ sẽ đi sau và hẹn có thể gặp ngoài
bờ hồ.
Ði về hướng Tây chỉ một block
là con đường lớn đụng công viên quanh bờ hồ. Ông Lương Kiện có dặn là cẩn thận
khi ra Hồ Tây vào ban đêm nhưng đến nơi thấy khung cảnh êm đềm, thơ mộng, ánh
trăng gần tròn lên khá cao phản chiếu xuống mặt hồ lung linh, ngoài khơi có
những ngọn đèn thắp trong lỗ tròn trông như những ánh trăng và những thi sĩ đã
từng nói không biết trăng nào thật vì có quá nhiều ánh trăng. Bên bờ hồ tráng
xi măng có vài ba chiếc thuyền gỗ (lớn hơn chiếc tam bản) cập bờ, trên thuyền
có chiếc bàn con phủ khăn trắng và một ngọn đèn dầu đặt ở giữa khi tỏ khi mờ và
hai chiếc ghế hai bên. Những ông chèo thuyền đội nón tre đứng đợi khách thuê
bao để du ngoạn trên hồ. Quanh bờ hồ trồng rất nhiều liễu và những loại cây
khác cũng như những khóm hoa được chiếu đèn trông rất lung linh huyền ảo. Thiên
hạ dạo chơi, từng cặp nam nữ dựng xe đạp ngồi tâm tình trên những chiếc băng
đá.
Người Trung Hoa thường tự hào
về phong cảnh đất nước mình, họ có câu: “Sống ở Tô Châu, chơi ở Hàng Châu, ăn ở
Quảng Châu và chết ở Liễu Châu”. Tô Châu gần Thượng Hải nổi tiếng về tơ lụa và
gái đẹp có giọng nói thánh thót như thơ nhạc, Hàng Châu cảnh đẹp nhiều trà
thất, tửu lầu với trà Long Tĩnh nổi tiếng thơm ngon, Quảng Châu nấu ăn rất ngon
và Liễu Châu ở gần Quế Lâm có nhiều gỗ qúi để đóng quan tài mà không bị mục.
Phố Hàng Châu được xây dựng cách nay 8,000 năm và có lịch sử được ghi chép cách
đây 2,200 năm từ thời Tần Thủy Hoàng, từng là đế đô của triều Nam Tống
(1127-1279) là một trong 7 cố đô của Trung Hoa. Khí hậu bán nhiệt đới ấm áp và
có bốn mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình hàng năm là 16.2 độ C. Thành phố được
thành lập ngày 24-5-1949 có diện tích 16,596 km vuông trong đó vùng đô thị là
3,068 km vuông. Dân số tính vào cuối năm 2004 là 6,516,800 người có hơn 4 triệu
sống ở vùng đô thị, đa số là người Hán và có 23 sắc tộc thiểu số khác gồm người
Hui, Mông Cổ, Man, Urgar và Chaoxian...Cây tượng trưng cho thành phố là cây
long nảo (camphor). Hàng Châu nội Tây Hồ không thôi đã có 10 cảnh đẹp (Tây Hồ
Thập Cảnh), ngoài ra còn có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử khác như chùa
Linh Ẩn (Ling Yin Temple), mộ anh hùng Nhạc Phi (Yue Fei), tháp Lục Hòa (Six
Harmonies Pagoda) v.v...
Trong Sử Trung Quốc học giả
Nguyễn Hiến Lê đã mô tả Hàng Châu dưới thời Nam Tống như sau:
“Thương mãi phát đạt thì thị
trấn thành thị cũng phát triển. Trung tâm kinh tế đã từ miền Bắc chuyển xuống
miền Nam. Kinh đô đã không còn ở trung lưu sông Hoàng Hà nữa; nó từ Trường An
chuyển lại Lạc Dương, rồi từ Lạc Dương đến Biện Kinh (Khai Phong ngày nay), đời
Nam Tống nó xuống Hàng Châu. Năm 1170 Hàng Châu đã có nửa triệu người. Chợ búa phố
xá rất đông đúc. Miền Nam khí hậu ấm áp hơn miền Bắc, cây cỏ xanh tươi nhiều
hồ, nhiều sông, đời sống dễ chịu nên tính tình của con người cũng thay đổi, bớt
khắc khổ, đạm bạt, nghiêm ngặt mà phóng khoáng hơn, vui vẻ, ham hưởng lạc, lãng
mạn hơn. Giới thương gia ở kinh đô sống trong những dinh cơ rộng: phía trước là
ngôi nhà lộng lẫy tiếp khách, có nhà thờ tổ tiên, phía sau là khu cho phụ nữ,
trẻ con, chung quanh là vườn rộng có cây cảnh, cây ăn quả, non bộ. Họ có nhiều
cao lâu, tửu quán, trà thất để ăn tiệc, chơi bời, ngắm trăng, nước, nghe hát.
Muốn biết đời sống của họ, chúng ta có thể đọc những truyện Thuỷ Hử, nhất là
Kim Bình Mai, hoặc cuốn “La vie quotidienne en Chine la veille de l'invasion
Mongole” của Jacques Gernet. Trụy lạc là giới thương nhân đó và giới quan lớn
mà hầu hết là đại điền chủ. Ở Trung Quốc, thời xưa các quan đều ăn hối lộ không
nhiều thì ít, vì lương của họ thấp quá mà họ lại có nhiều vợ, nhiều con, nhiều
kẻ hầu người hạ, có khi phải giúp đỡ cho anh em, họ hàng nữa. Một người làm quan
thì cả họ được nhờ. Vua Cao Tôn hiểu vậy tăng lương cho họ, không rõ bao nhiêu
nhưng có tăng gấp đôi, gấp ba cũng không đủ. Cho nên ông quan nào cũng không có
di sản của tổ tiên, hoặc vợ giàu, đảm đang, mà ráng giữ đức thanh liêm thì phải
sống đạm bạc như Phạm Trọng Yêm: Vợ con không được bận đồ tơ lụa, bữa cơm chỉ
dọn một món thịt, trừ khi có khách mà ông là một đại thần ở triều Nhân Tôn đấy.
Còn Tô Đông Pha hồi còn làm chức quan nhỏ, thất phẩm ở Mật Châu (lúc đó triều
đình đã giảm lương quan lại), phải chịu mọi cảnh thiếu thốn, con cái nheo nhóc,
không đến nỗi chết đói, nhưng có lúc cùng một bạn đồng sự, phải đi hái cúc
trong các vườn hoang để ăn cho đầy bao tử.
Khi
rợ Kim chiếm Biện Kinh rồi, vua Cao Tôn đầu đời Nam Tống lưu lạc hai ba nơi rồi
sau lại Hàng Châu lúc đó chỉ là một cái phủ ở ngay tỉnh lị, tỉnh Chiết Giang.
Mới đầu triều đình chỉ tính ở tạm tại đó, coi đó là một "hành tại"
(người Âu phiên âm là Quinsay) cũng như hành cung vậy thôi. Sau thấy phong cảnh
nơi đó đẹp đẽ, khí hậu mát mẽ, cây cối xanh tươi, nhất là miền đó có nhiều đồi,
nhiều hồ, sông rạch và chằm, rợ Kim quen chiến đấu ở miền Bắc, phi ngựa trên
những đồng cỏ mênh mông, gặp những sông rạch, chằm đó sẽ bất lợi, nên triều
đình Nam Tống lựa Hàng Châu làm kinh đô. Nó nằm trên bắc ngọn sông Chiết Giang-
khúc đó cách bờ biển không xa, còn có tên là Tiền Đường (nơi nàng Kiều gieo
mình xuống để chấm dứt 15 năm đau khổ), phía nam nó dựa lưng vào núi Ngô Sơn,
phía tây nó soi bóng trên Tây Hồ, nổi danh là nơi linh tứ bật nhất của Trung Hoa
nhờ cảnh đồi núi, hồ biển tuyệt đẹp, nhờ khí hậu ấm áp, nhờ dân trong miền tính
tình vui vẻ, nam thanh nữ tú, tiếng ca hát ngâm thơ vang lên trong các vườn
hoa, các trà thất, bên bờ nước, dưới các hàng liễu. Đầu Nam Tống, nó chỉ độ
200.000 dân, cả Nam Tống được độ 60 triệu dân, Bắc Tống được độ 40 triệu nữa.
Nhưng nó phát triểu rất mau vào cuối đời Nam Tống, đầu đời Nguyên, nó đã có một
triệu dân, thành thị trấn đông dân nhất, giàu có nhất thế giới. Mà coi trên bản
đồ chúng ta thấy rất hẹp. Nó có hai vòng thành, vòng trong xây vào thế kỷ VII.
Thị trần ở vòng trong: từ Nam tới Bắc độ bảy cây số, chiều ngang độ 2 cây số.
Thành trong đắp bằng đất, đá và gạch cao chín thước, dưới chân dày ba thước, có
13 cửa mà 3 ở phía đông quan trọng nhất, xây cất rất vững chắc, canh gác suốt
ngày đêm. Từ năm 893 người ta bắt đầu xây thêm vòng ngoài. Dưới chân thành có
hào rộng. Có một con đường chính rộng trăm bước chân từ Bắc tới Nam, nơi có
cung điện, tôn miếu và đàn Nam giao. Có nhiều đường từ Đông qua Tây cắt ngang
đường chính đó, và nhiều kinh chạy song song với đường chính. Không biết ngoại
ô lan tới đâu. Và người ta chỉ đoán rằng vào khoảng 1274. Thị trấn rộng trên 20
cây số vuông, mà chứa một
triệu người cho nên rất chật chội.”
Trịnh Hảo Tâm
(Cali nắng ấm tháng Năm
Những hàng phượng tím âm thầm
đươm hoa)
209
Hoàng hôn trên Tây Hồ
ở Hàng Châu
6213
Khách sạn Ramada Plaza
ở Hàng Châu
6215 Buổi sáng
trên một ngã tư ở Hàng Châu
6241 Ðoàn du
khách VN từ Cali vào một nhà hàng
No comments:
Post a Comment