CHƯƠNG 28
CHÙA LINH ẨN Ở HÀNG CHÂU
Chùa Linh Ẩn nằm trong thung
lũng cây cối xanh tươi với nhiều thạch động ở vùng núi phía Tây Bắc của Tây Hồ
cách trung tâm thành phố Hàng Châu khoảng 7 km. Chùa được xây lần đầu vào năm
326 AD (năm thứ nhất đời vua Tây An Hy (Xianhe) triều Ðông Tấn (Eastern Jin,
317-420AD) do thiền sư Lý Công từ Ấn Ðộ đi bộ sang Trung Hoa giảng kinh. Ông
thấy đỉnh núi giống như Thiên Tử Sơn bên Ấn Ðộ nên cho rằng Thiên Tử Sơn đã bay
qua đây nên đặt tên núi là Phi Lai Phong và tên chùa là Linh Ẩn có nghĩa là nơi
ẩn cư của các vị tiên linh. Chùa Linh Ẩn là ngôi chùa Thiền Tông lớn nhất miền
Hoa Ðông và là một trong 10 cổ tự nổi tiếng của Trung Hoa, đứng thứ nhì chỉ sau
chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Trong vùng núi quanh chùa có 345 tượng Phật điêu khắc
trên vách núi đá, những tượng này được khắc trong 3 thời kỳ từ Ngũ Ðại kế đến
nhà Tống và nhiều nhất là thời nhà Nguyên.
Buổi sáng đầu tiên ở thành
phố Hàng Châu là ngày 18-10-05, từ khách sạn Ramada chúng tôi lên đường đi chùa
Linh Ẩn. Xe chạy dọc theo bờ phía Bắc của Hồ Tây có nhiều đền chùa, tháp miếu
chen lẫn trong rừng cây cối xanh um nhiều cổ thụ, chúng tôi thấy nhân viên
thành phố đang dùng xe có thang cao để mé nhánh. Cây long não (camphor) được
trồng rất nhiều ở đây, ngắt một chiếc lá đưa lên mũi ngửi có mùi thơm cay nồng
của hương long nảo. Ðường xá sạch sẽ, mặt đường nhựa mới láng bóng, ngăn đôi
giữa hai chiều lưu thông là những con lươn trồng hoa cảnh đẹp mắt. Ðến bãi đậu,
chúng tôi rời xe qua cổng soát vé (giá vé tham quan là 45 yuan) xây theo lối
tam quan bên trên có đề chữ “Linh Ẩn Tự” bên cạnh là cửa hàng bán đồ lưu niệm,
nhang đèn rất đông người, có nhiều người bán chiếc kèn sáo làm bằng một khúc
trúc thổi kêu ríu rít như tiếng chim oanh. Những người bán dạo nói giá 1 dollar
một cái nhưng sau đó có người mua 1 dollar đến...10 cái! Mua xong, chúng tôi đi
bộ vào chùa, con đường khá xa gần một cây số và du khách địa phương đi đông như
ngày hội. Con đường tráng nhựa hay lát đá chỉ dành cho người đi bộ nằm dọc
trong thung lũng theo hướng Ðông Tây hai bên là hai ngọn núi với nhiều tùng
bách và một dòng suối chảy róc rách qua những tảng đá lớn, cây cối dây leo
chằng chịt khung cảnh núi rừng. Bên kia bờ suối là những tượng đủ mọi thánh
nhân được tạc trên vách đá, có tượng Phật Thích Ca, La Hán, Phật Bà nhưng thành
thật mà nói thì nghệ thuật tạc tượng còn kém, tỉ lệ thiếu cân đối có những
tượng đầu qúa lớn, tay chân quá ngắn thiếu nét sống động, không sắc sảo và to
lớn như những tượng Phật ở Long Môn Ðộng gần Lạc Dương mà chúng tôi đã viếng
qua. Chỉ có tượng Phật Di Lạc là khá hơn hết, tượng ngồi để bụng to bệ vệ có vẻ
sung sướng an lạc, miệng cười toe toét, hai má chảy xệ, mắt híp lại. Ðây là
tượng có nghệ thuật điêu khắc khá nên được mọi người để ý và đứng thắp nhang
khấn vái khẩn cầu. Có những bà cụ xách giỏ đem nhang đèn đến, cung kính đứng
thật lâu lâm râm khấn vái khiến con cái cùng đi kiên nhẫn đợi chờ.
Theo bảng giới thiệu bằng Anh
ngữ đặt ở đây ghi rằng: “Tượng 3 thánh nhân từ phương Tây ở Thanh Lâm Ðộng (Green
Forest Cave) được biết là tạc sớm nhất vào năm 951 AD. Ða số những tượng đời
Tống đều nhỏ và được khắc bên trong và xung quanh động Thanh Lâm cũng như động
Milky Icicles. Trong những tượng sắc sảo phải kể là tượng Phật Locana được tạc
vào năm 1022 AD trong thời Bắc Tống và Phật Maitreya theo kiểu Nam Tống. Những
tượng lớn được tạc trong thời Nguyên đa số nằm rải rác bên bờ Nam dòng suối Hàn
Tuyền (Cold Spring) và ở trên mặt đá trước cửa những hang động.”
Ðến một cửa động, các hướng
dẫn viên chỉ một bệ đá dài trên cao và nói rằng đây là chiếc giường ngày xưa Tế
Công (Ji Gong) Hoà Thượng ban đêm thường ngủ.Tế Công Hòa Thượng là một người tu
hành nhưng điên điên khùng khùng nên người ta còn gọi là Tế Ðiên Hòa Thượng,
tuy vậy nhưng ông thuyết pháp và giảng kinh Phật rất hay, ông giảng cho cả vua
nghe và dân chúng theo rất đông. Ông ăn mặc lôi thôi, không tắm rữa hay móc
ghét trong người vò viên lại cho dân làm... thuốc tể uống trị bịnh. Ông uống
rượu, ăn thịt chó nên các nhà sư trong chùa không cho ở trong chùa, ông phải ra
ngoài hang ngủ ban đêm. Bệ đá chỗ ngủ của ông mặt đá bằng phẳng láng bóng vì
nhiều người đặt tay vào sờ để lấy hên, bên trên lại có một hàng tượng Phật khắc
trên vách. Tôi sờ tay thấy mát lạnh, không hiểu
đêm Ðông tháng giá nằm nơi đây rất lạnh làm sao ngủ được? Chuyện của ông
tôi thấy người ta viết nguyên cả một cuốn sách dày có dịch ra tiếng Việt, trong
đó có kể chuyện một hôm ông xông vào một đám cưới và ôm xốc cô dâu mà chạy, dân
làng đuổi theo thì ngọn núi lở, đất đá chuồi xuống chôn cả ngôi làng. Người ta
tin rằng ông giả vờ cướp cô dâu để cứu cả làng khỏi chết! Cử chỉ ngang tàng,
thái độ điên điên khùng khùng của Tế Ðiên Hòa Thượng khiến tôi nhớ tới thi sĩ
Bùi Giáng. Bùi Giáng cũng dở điên, ăn mặc quái dị và thường gánh theo nồi niêu
soong chảo như một cái bang homeless “a bum”chính hiệu nhưng ông ta có tài ứng
khẩu thành thơ lục bát một cách tự nhiên còn Tế Ðiên Hòa Thượng thì ứng khẩu
thành bài giảng kinh. Bên trên hang này là núi đá cũng có tượng Phật và dây leo
chằng chịt như những con trăn. Nơi hang động này tác giả truyện Thủy Hử mượn
bối cảnh để cho Võ Tòng và Lỗ Trí Thâm vào đây giả tu lánh nạn.
Cổng chùa là một ngôi nhà lớn
sơn màu vàng, mái nhiều tầng lợp ngói âm dương và cửa ra vào rộng hình bán
nguyệt. Sau cổng hiện ra một rừng đại thụ tùng bách mà giữa đám cây xanh là
ngôi chùa lớn hiện ra cổ kính và hoành tráng vô cùng. Chùa to lớn có 3 tầng,
tầng dưới lớn nhất là chính điện bên trên có 4 chữ “Vân Lâm Thiền Tự” do vua
Khang Hy (Kangxi) nhà Thanh (Qing Dynasty, 1644-1911) năm 1681 phong tặng sau
khi chùa được xây lại trên nền chùa cũ. Khang Hy xúc cảm cảnh trí thanh tịnh
của ngôi chùa ở giữa núi rừng lãng đãng những màn sương trắng nên phong tặng
tên chùa là “chùa ở rừng mây”. Qua khỏi khoảng sân rộng, bước vào đầu tiên là
tiền điện có trần cao 60 feet trang trí hình vẽ rồng phượng có tên là Ðiện
Thiên Vương (Hall of the Heavenly Kings). Tại cửa điện có khắc câu thơ chữ Hán:
“Hãy ngồi đợi ngay ngạch cửa này, nơi đây sẽ thấy ngọn núi bay đến từ xa. Hãy
đón chào mùa Xuân với nụ cười như băng tan và ngọn suối trên cao bắt đầu chảy
trở lại”.
Trong tiền điện có tượng 4
thiên vương đứng bên cạnh Phật Di Lạc bụng to miệng cười vui vẻ như chào đón
bất cứ ai bước vào trong điện. Qua khỏi Ðiện Thiên Vương và một khoảng sân sẽ
đến chánh điện là điện rộng lớn nhất chùa có tên là Ðại Hùng Bảo Ðiện hay điện
Mahavira (Hall of the Great Hero) có chiều ngang 7 gian và sâu 5 gian. Từ sàn
nhà cho đến nóc 33.6 mét (110 feet) là ngôi điện cao nhất ở Trung Hoa xây toàn
bằng những cột gỗ. Giữa chính điện thờ tượng Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen
cao đến 24.8 mét (82 feet) được tạc bằng 24 miếng gỗ long nảo ghép lại và thếp
bên ngoài bằng những lá vàng mõng. Ðây là một trong những tượng Phật bằng gỗ
lớn nhất. Hai bên tượng là 20 vị thần bảo vệ chánh pháp và 12 hộ thần đứng nơi
vách cuối gian điện. Khung cảnh nơi đây hoành tráng và toát lên một vẻ huyền bí
linh thiêng, khách thập phương cung kính vái lạy rất đông nhưng không được thắp
đèn nhang, chỉ được thắp bên ngoài để tránh không khí ô nhiễm, ngộp ngạt bên
trong.
Bên cạnh ngôi cổ tự Linh Ẩn
xây từ thời nhà Thanh là một ngôi đền to lớn mới xây cách nay vài năm cùng lối
kiến trúc nhưng đơn giản hơn và bằng vật liệu kiến trúc hiện đại như xi măng và
sắt. Bên trong trên những bệ cao là 500 tượng Phật La Hán (Arhats) cao gấp đôi
người thật và khác nhau, mỗi tượng là một nhân vật riêng không người nào giống
người nào, tất cả đều được sơn một màu vàng ánh và chất liệu bên trong chắc là
bằng xi măng hay đất sét nung gì đó. Chúng tôi đi bên trong xem qua và chụp ảnh
vì quá rộng và quá nhiều tượng nên đi lòng vòng một hồi không biết đường ra! Ði
đâu cũng gặp những ông La Hán mặt mũi dữ dằn, mắt trợn ngược, tay cầm thanh
đao. Tượng làm tuy đẹp nhưng để bụi bám quá nhiều, rửa sạch hết 500 tượng lớn
như vậy chắc cũng phải tốn rất nhiều nước!
Phía sau chùa là rừng cây
phong (maple) loại lá xanh lớn bản mùa Ðông khô đi chứ không đổi sang màu đỏ,
loại này có nhiều người gọi là cây ngô đồng. Ở đây cũng có những cây tùng bách
cổ thụ mà người ta ghi số tuổi cả ngàn năm có thân sần sùi, vỏ cây bên ngoài đã
tróc mất nên đưa những sớ gỗ vằn vện bên trong.
Sau chánh điện chùa Linh Ẩn
là phòng y dược, nơi đây nhà chùa phơi khô tích trữ những cây củ dùng làm thuốc
bố thí cho khách thập phương. Bên cạnh dược phòng là phòng Ðại Ân và mái hiên
Mùa Xuân, hàng hiên này nguyên thủy được xây từ đời Ðường cách nay hơn một ngàn
năm. Nơi đây khách thập phương ngồi thiền hay thư giãn tâm trí trong những ngày
hè nóng bức, thưởng thức những làn gió mát có hơi sương phù vân từ núi rừng bên
ngoài đưa vào. Ở phố Bolsa thuộc Little
Saigon cũng có những mái hiên nhưng là mái hiên...Tây, không phải để ngồi thiền
mà để cho khách Việt ngồi hút thuốc và uống cà phê vào những “buổi sáng sương
mai vừa lắng đọng”. Không gian nơi đây ít êm đềm trầm mặc mà thường xôn xao xua
động...những lời bàn. Người Bolsa thích đọc báo, nhưng vẫn ngồi đây nhâm nhi ly
cà phê để nghe những tin tức thuộc loại hậu trường (behind the scene) vừa người
thật, việc thật vừa hư cấu sấm truyền, muốn hiểu sao cũng được mà báo chí không
đăng. Nhiều người chọn làm ca hai buổi chiều để còn được cái thú mỗi sáng ra
tham dự bên bàn cà phê họp báo! Ðó cũng là nét sinh hoạt văn hóa của người
Bolsa phảng phất không khí quán cà phê Catinat, Brodard, ngã tư Quốc Tế của Sài
Gòn ngày trước. Thật là “Chúng ta đi mang theo quê hương” như nhà báo Ngô Mạnh
Thu đã từng nói.
Trịnh Hảo Tâm
(Cali tháng Sáu cuối Xuân
Hàng cây phượng tím tưng bừng
nở hoa)
CAPTIONS:
6148 Chùa Linh Ẩn được xây
lần đầu vào năm 326 AD
6144 Những tượng trên vách núi
chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu
6145 Tượng Phật Di Lạc tạc
trong vách đá
6160 Những tượng Phật được
tạc cách nay 1,000 năm
6161 Du khách đang xem bệ đá
Tế Công thường ngủ
6153 Tượng Phật Thích Ca bằng
gỗ thếp vàng trong chính điện cao 82 feet
6156 500 tượng Phật La Hán
trong điện bên cạnh chùa
No comments:
Post a Comment