TRỊNH HẢO TÂM
Ngày 15 Tháng 5, 2013 chúng tôi ra phi trường LAX (Los
Angeles) để du lịch Tây Âu qua 5 nước Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Ý và Tunisia.
Chuyến này lần đầu tiên đi bằng máy bay mới Airbus A380 của hãng hàng không Air
France .
Loại phi cơ mới này có 2 tầng và chở được 516 hành khách, mỗi hàng có 10 ghế như
Boeing 747 và 777. Phi cơ mới nên thứ gì cũng mới từ ghế ngồi êm ấm cho đến màn
ảnh TV trước mặt chiếu cảnh thực bên ngoài khi máy bay cất và hạ cánh cho đến
quày nước giải khát muốn uống thứ gì cũng có kể cả rượu vang.
Phi cơ vừa cất cánh trong bữa ăn đầu tiên thì xảy ra tai nạn
nghề nghiệp cho cô tiếp viên người Pháp trẻ trung và xinh đẹp. Số là khi rót
Coca Cola cho vợ tôi chắc là tại vì tôi nhìn quá, cô ta đâm run làm đổ Coca
Cola lên người ông già Mỹ ngồi cạnh vợ tôi khi cô bỏ chai nước ngọt lại trên quày
thức ăn, nguyên chai nước rớt trên mình ông già. Ông hành khách nhẫn nhục làm
thinh nhưng cô ta cuống quít xin lỗi và chạy tìm một đống giấy ăn đưa cho ông
lau. Ông ta lau sơ và đi vào toilet để thắm gục quần áo, đến khi ông trở lại thì
áo quần đều ướt mem. Cô đi vào trong và trở lại đưa cho ông một bộ pyjama sạch
nằm trong bao nylon, bảo ông thay đỡ và cô sẽ đi giặt sạch và xấy khô quần áo mà
ông đang mặc ướt. Ông già từ chối, một lúc sau có bà trưởng đoàn tiếp viên đến
xin lỗi ông và đề nghị ông nhận một promotion gì đó trong chuyến bay kế tiếp. Ông
ta cũng từ chối và ngồi im đọc tạp chí mang theo suốt chuyến bay ngoại trừ nói
chuyện với chúng tôi khi tôi hỏi ông cách chuyển máy bay khi đến phi trường
Charles de Gaulle. Chúng tôi chỉ có 1 giờ 30 phút để chuyển từ Terminal 2E sang
Terminal 2G cách nhau vài cây số để đổi máy bay nhỏ bay sang Bremen thành phố miền Bắc nước Đức nơi vợ chồng
em gái tôi định cư từ 1979 sau chuyến vượt biển cùng với gia đình chúng tôi.
Phi trường Charles de Gaulle lớn nhất Âu Châu mỗi ga hành khách
(Terminal) nằm rải rác xa nhau nghe nói chuyển đổi máy bay rất là phức tạp vì đến
Terminal 2G còn phải trình Passport và khám xét an ninh một lần nữa, nếu sắp hàng
qúa dài thì trễ chuyến bay kế tiếp mà hãng bán vé Expedia trên Internet đã sắp
lịch trình bay như vậy rồi. Ra khỏi máy bay đỡ một cái là bảng chỉ dẫn rõ ràng
(chắc là mới cải tiến) cứ theo hướng 2G mà đi. Đi miết, đi miết hết thang cuốn đến
thang bộ cuối cùng đến một vách tường kính trong suốt trên tầng lầu cao. 2G mũi
tên chỉ ra cõi không trung đó nhìn thấy những chiếc máy bay đậu ở phía dưới. Tưởng
bảng chỉ dẫn gắn nhầm, tôi hỏi cô nhân viên đứng gần đó, cô nói chiếc thang máy
đang ở phía dưới lầu. Qủa như vậy, vách tường bằng kính có khung cửa kính, đó là
cửa vào thang máy. Lúc sau thang máy lên và cửa kính mở chúng tôi đi vào. Xuống
dưới thang máy là nơi hành khách đợi xe Shuttle đến, đưa đi Terminal 2L, 2M, 2G
và các Terminal khác. Một nhân viên đứng tại đây mỗi khi xe Shuttle đến ông ta
hô lớn cho biết xe này sẽ đi Terminal nào, cứ theo đó mà hành khách lên xe, cũng
khó mà nhầm.
Chỉ còn 20 phút nữa là chuyến bay của chúng tôi đi Bremen cất cánh tại
Terminal 2G này mà không biết ở cửa ra tàu (Gate) nào? Hỏi nhân viên ở đây, ông
ta nói cứ đến phòng chờ đợi và theo dõi trên màn TV. Đến phòng đợi hành khách đứng
ngồi la liệt, nhìn lên màn ảnh TV lịch trình các chuyến bay với con số của những
cửa ra tàu, chuyến bay của tôi vẫn chưa có cửa. Vài phút sau con số cửa hiện lên
và chúng tôi vội ra ngoài ngay tìm cửa của chuyến bay mà đến. Gate ở đây không
có băng ngồi chờ đợi gì cả vì mọi người thường phải đi ngay xuống xe buýt mà ra
máy bay đậu ngoài sân. Hoá ra Terminal 2G dùng cho những tuyến bay gần sang những
thành phố lân cận, khoảng giờ bay trên dưới một tiếng đồng hồ. Phi cơ chúng tôi
đi Bremen là
loại Embraer RJ145 chỉ có 50 ghế ngồi.
Tới Bremen 2 giờ 30 chiều
ngày Thứ Năm 16-6-13 (giờ Bremen cùng giờ với Paris , đi trước California
9 tiếng). Phi trường rất nhỏ ngoài sân bay chỉ chừng 10 chiếc đậu, khi lấy hành
lý nhìn ra ngoài đã thấy vợ chồng em gái tôi đang đứng đợi. Sau giây phút trùng
phùng hội ngộ, em rể lái xe đưa về nhà ở khu vực phía Đông Nam thành phố cách
phi trường không xa khoảng 5 km. Buổi chiều ăn uống, hàn huyên tâm sự chuyện xa
chuyện gần trong gia đình. Ở thành phố này ngoài vợ chồng em gái tôi là Trịnh
Ngọc Lan, chồng là Phùng Khải Tuấn ngày xưa 1979 cùng vượt biên với chúng tôi ở
Cà Mau, họ hàng còn có cháu gái Lê Kiều Hạnh lấy chồng kỹ sư người Đức tên
Oliver do em gái tôi mai mối giới thiệu. Hạnh và chồng gọi điện thoại thăm tôi
và hẹn sau khi chúng tôi đi Cruise về sẽ mời đi ăn.
Sáng hôm sau chuẩn bị thăm viếng thành phố Bremen do em gái tôi dẫn đi bằng xe điện. Đây
là lần thứ nhì tôi đến Bremen, lần trước vào tháng 9 năm 2006 để thăm các nước Đông
Âu. Trước khi đi ăn sáng với bánh mì nóng và các loại dồi xúc xích thịt heo là
món ăn truyền thống của người Đức. Bánh mì nóng đi bộ ra đầu phố là có đủ các
loại màu vàng rợm trông rất ngon. Người Đức ăn uống rất đơn giản chỉ cần bánh mì
đen hoặc trắng ăn với dồi xúc xích mà họ gọi là “Wurst”. Có đến 1,500 loại xúc
xích khác nhau tùy theo địa phương và là món ăn sáng trưa chiều tối gì cũng thích
hợp. Hai đứa em tôi lại ăn bánh mì với thịt heo sống xay ra gọi là
“Hackepeter”, thịt phải là thịt nạt lưng rồi cứ lấy con dao mà phết trên bánh mì
và thêm chút Maggi. Hai đứa cho biết hồi mới sang thấy người Đức ăn cũng ớn lắm
nhưng dần dà cũng thích món này. Tôi có thử một miếng bánh mì phết thịt heo sống
nhưng thấy không ngon gì. Tráng miệng bằng bánh Ý tên Tiramisù một loại bánh
cake như bánh sinh nhật nhưng béo vị bơ và thơm mùi ruợu, rất hợp khi uống với
cà phê đậm.
Ăn sáng xong chúng tôi ra khu trung tâm thành phố bằng xe điện.
Xuống xe ở khu phố cổ có tên là Schnoor ngày xưa ngàn năm trước là nơi cư ngụ của
dân đánh cá trên sông Weser là con sông chảy qua thành phố khá giống và cùng hướng
như sông Sein ở Paris. Khu này có những con hẻm nhỏ lát đá, nhà phố lầu cao hai
bên bằng đá đen trông lạnh lùng cổ kính. Nay cùng với trung tâm thành phố là
khu du lịch, khách Đức từ các tỉnh phía Nam tới theo đoàn tua du lịch rất đông.
Đến viếng ngôi nhà thờ Công giáo cổ kính St.
John to lớn bằng đá đen, bên trong cung thánh âm u với
những giàn đèn đưa từ trần xuống. Những bàn thờ hai bên với tượng các thánh và
những phù điêu “chặn đàng thánh giá” mô tả cảnh Chúa chịu nạn. Băng ngồi và bàn
qùy bằng loại gỗ xưa cứng như sắt nhưng qua thời gian mòn ở các góc cạnh. Ra bên
ngoài nhà thờ gặp ông bà Hưng là gia đình em tôi quen biết cùng với vài cụ cao
niên khác đi xem lễ nhà thờ vừa xong trước lúc chúng tôi đến. Bremen
người Việt tỵ nạn cũng khá đông khoảng vài ngàn người, có vài căn tiệm thực phẩm
Á Châu bán các loại gia vị rau cải Việt Nam và khoảng một chục nhà hàng Việt
nhưng bán các món ăn Thái, Tàu cho người Đức. Giáo dân Công giáo thì còn ít và ở
rải rác nên chưa thành lập được cộng đoàn nhưng mỗi tháng có linh mục Việt đến
cử hành thánh lễ. Hiện nay là cha Huỳng Công Hạnh phụ trách, cha thường tổ chức
những chuyến hành hương thánh địa Do Thái. Là một linh mục trẻ nhiều khả năng và
lòng nhiệt huyết, cha thường sinh hoạt thánh ca với giới trẻ và đã cho ra dĩa
CD thánh ca “Xin Vâng” với nhiều sáng tác giá trị. Email của linh mục Huỳnh Công
Hạnh là hchsvd@gmail.com
Rời nhà thờ chúng tôi đi bộ tới quảng trường thành phố nơi đây
cũng có nhà thờ cổ rất to lớn là vương cung thánh đường St.
Petri của Tin Lành, dân chúng gọi là Dom. Quảng trường người Đức gọi là “Marktplatz”
là một khoảng đất trống lát đá vuông coi như công trường hay “bùng binh” ngày
xưa người ta nhóm chợ. Mặt tiền của công trường là một dãy phố lầu gọi là Town
Hall được xây từ 1405 đến 1410 theo kiểu Gothic nhưng phần trước mặt tiền dãy
phố được xây dựng 2 thế kỷ sau (1609-1612) theo kiểu Phục Hưng (Renaissance)
như ta thấy ngày nay. Dãy
phố Town
Hall gồm 6, 7 ngôi nhà xây khít vách với nhau,
mái nhọn lợp ngói đỏ ngày nay là những nhà hàng bán bia. Ngay nơi đây có bức
tượng của ông Roland được dựng lên năm 1404, tay cầm thanh gươm công lý còn tay
kia thì cầm tấm khiêng che có hình con ó đen. Ông Roland là tướng của hoàng đế
Charlemagne là vua của vùng Tây Âu vào thế kỷ thứ 8. Roland được xem như anh
hùng dân tộc có công bảo vệ thành phố Bremen
và ông đã tử trận khi đánh với quân Hồi giáo. Người dân Bremen kính trọng ông Roland xem ông như là
thành hoàng, tượng của ông được tôn kính mỗi khi có chiến tranh là tượng được đem
cất giấu rất kỹ. Tượng bị hư hại hay mất là thành phố suy tàn, dân chúng khốn
khổ. “Marktplatz” và tượng Roland được liệt vào danh sách di sản thế giới vào
năm 2004.
Một tượng khác cũng gần đó nhưng khuất bên hông nhà thờ St. Petri là tượng 4 con thú có tên là “Die
Stadtmusikaten” (Town Musicians). (“Die” không phải là “chết” mà trong tiếng
Đức là một tiếng loại từ giống như chữ “the” trong tiếng Anh). Đây là bức tượng
bằng đồng của Gerhard Marck dựng lên năm 1953 có hình 4 con gia cầm là lừa,
chó, mèo và gà đứng trên lưng chồng lên nhau. Bức tượng được dựng theo một truyện
cổ tích thần tiên dành kể cho con nít nghe của anh em nhà Grimm. Theo chuyện
này thì ngày xưa 4 con gia cầm kể trên bị chủ nuôi bạc đãi nên bỏ nhà đi lang
thang. Một đêm đói bụng quá bỗng gặp một căn nhà hoang nhưng bên trong là một
bọn cướp đang ăn nhậu và chia nhau của cải lương thực chúng cướp được. Bốn con
mới đứng chồng lên nhau hét vang lên làm bọn cướp trong đêm tối nhìn ra tưởng
quái vật đến tấn công nên chúng hè nhau bỏ chạy hết. Bốn con gia cầm có đồ ăn
và có căn nhà làm chốn nương thân. Tượng này trông cũng ngộ nghĩnh không đâu có
nên được xem là hình ảnh tượng trưng cho thành phố Bremen .
Bên kia đường là kiến trúc cổ đen đúa nhưng trông rất ngoạn
mục với nhiều cột, vòm mái cong đường nét cổ thời kỳ Phục Hưng đuợc xây năm
1588. Đó là ngôi nhà lầu lớn tên là Stadtwaage tức là “nhà cân” có lẽ ngày xưa
bên trong có những cái cân để cân đếm hàng hóa, lương thực cho khu chợ bên
ngoài. Ngôi nhà này bị hư hao trong trận Đệ Nhị Thế Chiến và dân chúng Bremen đã trùng tu phục
hồi lại bằng chính tiền của họ đóng góp. Phía đông nhà cân là vương cung thánh
đường St. Petri được xây dựng vào thế kỷ 13
rất cổ có kiểu giống như nhà thờ chính tòa Hà Nội. Có hai lầu chuông nhưng
không có ngọn tháp nhọn bên trên. Ở mặt tiền nhà thờ có 5 cây cột lớn, mỗi cột
có tượng các thánh như Moses, David, Peter (Phê rô) và Paul (Phao lồ). Tượng
còn lại là hoàng đế Charlemagne (742 hay 747 đến 814) là vua của xứ Franks
(768-814) người đã chinh phục đế quốc Ý và lên ngôi vua vùng Lombardy
năm 774. Năm 800 nhân chuyến viếng thăm La Mã (Roma) ông được Giáo Hoàng Leo
III phong chức và đội cho vương miện Hoàng Đế La Mã (Emperor of the Romans).
Cha ông cũng là vua, ông được xem là cha già dân tộc thành lập hai nước Pháp và
Đức và là người đầu tiên cai trị cả vùng Tây Âu sau khi đế quốc La Mã suy vong.
No comments:
Post a Comment