Pages

Powered By Blogger

Friday, August 5, 2016




CHƯƠNG 23

CỔ THÀNH TÂY AN









Rời chùa Từ Ân là nơi Ðường tăng Tam Tạng trụ trì dịch kinh Phật sau khi thỉnh về từ Ấn Độ, chúng tôi đến khách sạn Orient Hotel Xian để ăn trưa. Khách sạn là một cao ốc hàng chục tầng tọa lạc trong khu vực ngân hàng, văn phòng các hãng ngoại quốc. Nhà hàng hình tròn ở tầng cao nhất của khách sạn, từ nơi đây có thể nhìn bao quát thành phố Tây An (Xian) thủ phủ tỉnh Thiểm Tây. Ban đầu tôi tưởng nhà hàng xoay vòng quanh trục giữa nhưng ngồi ăn một hồi thấy cảnh phiá dưới vẫn vậy không có gì thay đổi mới biết nhà hàng không xoay. Ăn uống ở nhà hàng trên tháp xoay vòng cũng thích vì cảnh phiá dưới thay đổi, lúc nhìn núi, lúc nhìn biển với những du thuyền khổng lồ đèn đóm sáng rực ở ngoài khơi nhưng cũng làm thực khách bối rối khi đi lấy thức ăn. Món mình thích vừa mới nằm ở đây, ăn xong dĩa định trở lại lấy thêm thì nó lại di chuyển sang chỗ khác! (Khu các bàn ăn phiá vòng ngoài xoay, nhưng chỗ để món ăn ở giữa cố định không xoay) Lấy thức ăn xong tìm bàn của mình ngồi cũng khó, phải đi trở lại gần hết một vòng tròn nhà hàng. Đi xong nhìn lại thì bàn mình ngồi chỉ cách nơi vừa lấy món ăn...chỉ vài bước! Nhà hàng Buffet của Orient Hotel Xian chỗ ngồi tốt vì có cảnh thành phố nhưng thức ăn không có gì đặc biệt, tôi chỉ chấm món súp hoành thánh nóng và trái cây còn những món khác cũng là những món Trung Hoa nhiều dầu mỡ.



Ăn trưa xong xe đưa chúng tôi ra khu cổ thành Tây An ở khu trung tâm thành phố để xem những bức tường thành quách ngày xưa và đi dạo phố mua sắm vì khu chung quanh đó có rất nhiều cửa hàng Department Stores. Xe đi vào cửa thành phía Nam là cổng chính. Sau khi ngừng lại mua vé cho cả đoàn (10 yuan mỗi người), xe chui qua tường vào đậu bên trong thành, sân này khá lớn bốn bề vây kín bởi tường cao, là một thành nhỏ trong thành lớn. Ngày xưa nơi đây gọi là “Wong Cheng” để binh sĩ cắm trại đồn trú, thành lớn bên ngoài có mất vào tay giặc thi binh lính vào bên trong này cố thủ chờ viện binh kéo về tiếp cứu. Nơi đây có đường bậc thang rất rộng để lên sân trên tường thành, ngày xưa là đường dốc không có bậc thang để kỵ binh đem ngựa lên. Chúng tôi leo bậc thang để lên phiá trên thành. Bên trên có một ngôi tháp 2 tầng rất cổ, kèo cột chạm trổ hoa văn cầu kỳ sơn xanh đỏ, mái ngói tháp phủ rêu xanh. Cả hai tầng ngôi tháp làm phòng trưng bày đồ gỗ và bán những món hàng thủ công nhưng không thấy ai mua. Hai ông công nhân viên bán hàng ngồi uống trà, chúng tôi vào xem cũng không buồn chào hỏi câu nào. Một nhóm binh lính hải quân đi phép, mặc quần áo đại lễ, đi tới lui nhìn ngắm, bàn tán và chuyện trò cười giỡn.



Trên tường thành sân rộng chạy dọc theo tường như một con đường, hai bên treo cờ đuôi nheo ngủ sắc và lồng đèn đỏ phất phới trong gió nổi bật trên nền trời thu xanh ngát. Ở đây có cho mướn xe đạp để du khách đạp vòng quanh cổ thành và những gian hàng cho mướn long bào, vương miện, nhung y hoàng hậu, lộng che để du khách chụp hình. Từ trên cổng thành nhìn lên phiá Bắc là một đại lộ thẳng tấp, xe cộ nối đuôi, hai bên là những dãy cao ốc cửa hàng thương mại người ta đi dập diù. Chúng tôi có hơn 2 tiếng đồng hồ ở đây nên xuống thành đi dạo phố xem Trường An kinh đô nhà Ðường bán thứ gì và phụ nữ có đẹp như  Dương Qúy Phi hay không?



Thành Trường An được xây từ đời Bắc Triều, năm thứ hai vua Sui Wendi (520 sau Công Nguyên) có hình chữ nhật, chu vi 4 mặt dài tổng cộng 13.74 km (8.5miles), cao 12 mét (40 feet), phiá trên tường dầy từ 12 đến 14 mét (40-46 feet) và chân tường từ 15 đến 18 mét (50-60 feet). Cứ cách nhau 120 mét có một tháp canh nhô cao lên, tổng cộng có tất cả 98 tháp canh, trong tháp canh binh sĩ được che chắn an toàn, có thể dùng cung nỏ để bắn địch quân ở phiá dưới. Khoảng cách 120 mét là tầm bắn của cung nỏ. Thành Trường An xây để bảo vệ dân chúng sống trong thành gọi là nội thành, có 4 cửa lớn ở 4 mặt Nam Bắc Ðông Tây và hào sâu đào dọc bên ngoài tường thành. Thành được xây lại năm 1568 thời nhà Minh do quan tổng đốc Zhang Zhi trách nhiệm xây bằng gạch đen. Năm 1781 thời nhà Thanh, tổng đốc Bi Yuan đại tu bổ và xây thêm những ngôi tháp ở 4 cửa. Gần đây nhất là năm 1983, chính quyền tỉnh Thiểm Tây tu bổ tường thành, đào sâu hào nước dọc theo tường và trồng cây, xây các công viên làm đẹp thêm diện mạo thành phố Tây An. Hiện nay khi chúng tôi đến đang xây lại khu phố cổ bên trong thành kế cận cửa Nam, khu này tôi thấy bán nhiều các sản phẩm văn hoá như bút lông, mực tàu, tranh thư họa v.v...mà khách hàng là người trong nước. Dù sống trong thời đại tin học, mọi việc đều dùng vi tính nhưng người Trung Hoa vẫn trọng chữ nghĩa, chuộng thư họa (nghệ thuật viết chữ), họ rất ham mê đọc sách, những quán sách báo mọc lên khắp nơi, đường phố nào cũng có.



Chúng tôi đi trên con đường chính lên hướng Bắc, chiều thứ bảy người ta dạo phố rất đông, tôi có cảm giác như đi trên phố Ðông Kinh Nhật Bản năm 1974 khi sang tu nghiệp Đo Đạc Thủy Đạo (Hydrographic Survey) nửa năm bên đó. Vào tiệm KFC (Kentucky Fried Chicken) mua một cốc cà phê xem ngon dở thế nào? Nhưng thất vọng vì cà phê ở đây nhạt quá như cà phê instant trong gói nhỏ! Tới công trường Tháp Chuông nhìn thấy Tháp Trống gần đó về hướng Tây, cả hai tháp có kiến trúc như ngôi đền cổ. Xuống hầm băng qua con đường chính để vào một Department Store ở hướng Ðông. Thương xá nhộn nhịp đông người nhất là giới trẻ, có nhiều tầng, mỗi tầng bán một mặt hàng riêng. Tầng bán nữ trang đèn sáng choang, các cô bán hàng đồng phục mời chào. Vợ tôi muốn xem ngọc trai, các cô chìu khách đem ra đủ các loại khác nhau nhưng chúng tôi thấy giá đắt mà không biết có trả giá được hay không nên không mua. Ra khỏi thương xá thì bên ngoài vĩa hè thấy một đám đông vây quanh, bên trong đám đông có hai bé gái, một đứa ốm yếu đang nằm bất động trên vĩa hè, còn đứa chị độ 14, 15 tuổi thì qùy, trên đầu chít khăn tang và cầm một bức ảnh của một người đàn ông có lẽ là cha hai đứa bé. Dưới bức ảnh có ghi những dòng chữ Tàu chắc kể hoàn cảnh gia đình của chúng: có thể là cha làm công nhân hầm mỏ tử nạn, em bịnh kinh niên cần được giúp đỡ. Có vài người cũng cho tiền. Có thể hai bé này là ăn mày chuyên nghiệp, dàn cảnh để đánh động lòng từ tâm của mọi người. Nhưng có thể hoàn cảnh hoạn nạn thật sự, không ai biết được? Trên đường phố còn có nhiều nghệ sĩ lang thang, có hai người mù kết hợp với nhau thành một ban nhạc cổ truyền, họ chơi đàn gáo, ca hát để xin tiền. Cũng có micro, loa điện nhưng cột dây vá víu chằng chịt trông rất thảm nảo!



Kinh đô Tràng An dưới thời Ðường đã được Nguyễn Hiến Lê mô tả như sau trong Sử Trung Quốc do nhà Văn Nghệ xuất bản ở hải ngoại: “Thị trấn lớn nhất đời Đường là Tây Kinh Tràng An. Theo Eberhard thì kinh đô đó có thời đông tới 2 triệu. Thị trấn chiếm một khu hình chữ nhật, một chiều 9.7 cây số, một chiều 8.6 cây số, ở phía Đông Nam kinh đô đời Hán. Những chi tiết đó hợp với bản đồ Trường An in trong cuốn Li Che Min của Fitzgerald. Chắc chắn thị trấn đó lớn nhất Đông Á, có thể lớn nhất thế giới thời đó nữa.

 
Nó nằm ở bờ phía Nam sông Vị, gồm ba phần: Phía Bắc là cung điện với khu thành nội, phía Nam là khu của dân chúng. Chung quanh có lũy bằng đất. Khu dân chúng có 11 đại lộ từ Đông qua Tây và 14 đại lộ từ Bắc tới Nam, tất cả đều thẳng góc với nhau, chia thành 108 xóm, mỗi xóm lại có một lũy tre đất bao chung quanh với 2 hay 4 cổng, ban đêm đóng. Những nơi đông đúc nhất là dọc theo đại lộ chính giữa đưa từ Bắc xuống Nam, và xóm chợ Đông và Tây, chỗ có cửa hàng và nhà của các thương nhân ngoại quốc. Có trên ba chục ngôi đền, chùa lớn.

 
Phía Bắc, ngay trên bờ sông Vị là một vườn thượng uyển mênh mông, trong đó năm 634 cất thêm một cung nữa, cung Đại Minh, nơi ở của vua, gồm ba chục lâu đài cách biệt nhau, rải rác trong vườn. Lâu đài rộng nhất (77.6 mét x 130.4 mét) có một cái nóc lớn chống bằng 164 cột. Trong một góc vườn có sân chơi polo (mã cầu: cưỡi ngựa mà đánh cầu), trò chơi này người Trung Hoa bắt chước của người Ba Tư.



Phía Bắc sông Vị có khu mộ địa của hoàng tộc. Mỗi ông vua khi còn sống cho xây trước một cái lăng cho mình. Những vật khai quật được gần đây (gương đồng, cây trâm cài tóc, đĩa chén, tượng nhỏ bằng ngọc, đồng...) cho ta biết được đời sống xa hoa của mỗi hạng người sống trong cung thời đó, từ các cung phi bó chân (cuối đời Đường tục bó chân đã bắt đầu lan rồi), các vũ nữ, nhạc công, tới bọn người chơi polo, bọn tôi tớ, bọn giữ ngựa đi những cái ủng thật rộng, mũi quặm, râu quặm, rõ ràng là gốc ở Tây Vực.
Tràng An thời đó là nơi tụ họp của đủ các giống người: Nhà sư Ấn Độ, tu sĩ đạo Cảnh giáo, con buôn Samarcande, quân lính Đột Quyết, sinh viên Nhật Bản…Dân bốn phương tụ lại: Thư sinh lên kinh để thi tiến sĩ, người đậu rồi thì đợi bổ dụng,; bọn hảo hán đi tìm nhà quyền quý biết dùng mình; thương gia buôn muối, trà, thuốc bắc, quan lớn ở tỉnh về kinh để bệ kiến... Cao lâu, tửu điếm, trà thất, kĩ viện mọc lên như nấm, ồn ào suốt đêm tiếng ca tiếng nhạc. Cả một xã hội thích ca nhạc, mĩ nhân và thơ. Con buôn cũng biết làm thơ. Mê thơ nhất có lẽ là kĩ nữ. Một số ít có thanh, có sắc lại biết làm thơ thì nổi danh khắp nước; không biết làm thơ thì ít nhất cũng thuộc thơ của danh sĩ thời ấy.”



Gần 1,500 năm sau với biết bao nhiêu biến đổi thăng trầm, chúng tôi đến thăm Tràng An (nay gọi là Tây An nhưng dân địa phương vẫn thích cái tên Trường An ngày xưa), thành phố vẫn là một trung tâm văn hoá cho cả nước, là cái nôi phát sinh nền văn minh Trung Hoa với những di tích văn hóa lâu đời cả 3 ngàn năm như viện bảo tàng bia đá có khắc chữ cổ, những ngôi chùa cổ chứa kinh sách, những hầm chôn tượng người với nét điêu khắc sống động và cung điện mùa Ðông của Ðường Minh Hoàng nơi phát triển các bộ môn thi, ca, vũ, nhạc mà nền văn hóa Trung Hoa ngày nay vẫn còn vay mượn.



Bốn giờ chiều đoàn chúng tôi lên xe để ra phi trường Tây An đáp chuyến máy bay hãng China Eastern Airlines lúc 6 giờ 30 để đi Quế Lâm (Guilin) thuộc tỉnh Quảng Tây. Phi trường nằm ở hướng Tây Bắc và cách trung tâm Tây An khoảng 20 miles tuy có xa lộ nhưng cũng phải mất hơn nửa giờ. Qua cầu trên sông Vị thì cảnh đồng quê hiện ra, những ruộng bắp đã hái trái, còn lại thân cây khô người ta đốt cả ruộng, khói bay lên. Ngồi trên xe nhìn thấy rải rác đó đây từng đám khói bốc cao lên trên bầu trời chiều. Hướng dẫn viên địa phương là cô Ngô Nghị cho biết chính quyền ra lịnh cấm đốt ruộng nhưng nông dân vẫn đốt để lấy tro làm phân bón cho mùa năm tới. Trên những cánh đồng có rất nhiều đồi nhỏ, cô cho biết là những nấm mồ đời xưa của những quan lại, phú hào. Nhà cửa ở đây cất xa con lộ mới mở và họ tập trung lại thành làng nhỏ chung quanh có trồng cây che gió. Xe rẽ phải để vào phi trường và nhà ga phi trường Tây An cũng mới xây và hàng ngày cũng hơn 50 chuyến bay lên xuống. Ngô Nghị từ giã mọi người và nhận tiền tip, cô chúc: “Có những ngày tuyệt đẹp ở Quế Lâm và ở nơi đó mùa Thu hoa nở rất đẹp”. Phi cơ A 320 cất cánh thì trời cũng đã tối, bên dưới Tây An còn lại lấp lánh những ánh đèn và lập loè những đốm lửa đốt rẫy bắp. Hình ảnh hai em bé gái xin tiền và hai ông nghệ sĩ mù rách rưới khiến tôi xót xa và cay mắt như có hạt bụi lọt vào! Trung Quốc ngày càng phát triển, nhiều người giàu có nhưng đa số dân quê vẫn còn nghèo đói, cơ cực. Nhiều người lang thang về thành phố làm đủ mọi nghề sinh sống nhưng chỉ kiếm được vài đô la mỗi ngày!







CAPTIONS:

5955 Con đường chính trong thành Tây An nhìn từ tháp cửa Nam

5965 Cờ đuôi nheo, lồng đèn đỏ treo trên tường thành phiá nam

5976 Tháp chuông điểm giờ và tháp trống báo động khi giặc về

5977 Tầng bán nữ trang trong thương xá

5975 Hai bé gái ăn xin trên hè phố

5982 Hai nghệ sĩ mù rong ca trên hè phố




No comments:

Post a Comment