CHƯƠNG 19
LĂNG MỘ TẦN THỦY HOÀNG Ở TÂY
AN (PHẦN 2)
Khu Lăng Mộ Tần Thủy Hoàng
(Qin Shi Huang) được xây vào năm 247 trước Công Nguyên ở vùng núi Ly Sơn
(Leshan), huyện Lâm Ðồng (Lintong), tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi). Sau khi đánh bại
6 nước, ông cho xây lăng mộ và chôn châu báu tịch thu đuợc ở đây. Theo tập tục
tùy táng ông còn cho chôn thêm hàng ngàn tượng binh mã và tin rằng sau khi chết
đi số binh mã đó sẽ theo hộ giá cho ông. Công việc xây lăng mộ kéo dài 36 năm
với hàng trăm ngàn dân công là tù binh và nông dân. Tần Thủy Hoàng là một bạo
chúa nhưng thống nhất được Trung Hoa, thống nhất chữ viết, đơn vị đo lường và
xây dựng nhiều công trình vĩ đại trong đó có Vạn Lý Trường Thành.
Sau khi vào xem Hầm Số 1 là
hầm lớn nhất trong 3 hầm chôn hàng ngàn tượng đất nung hình người, ngựa, chúng
tôi theo cô Ngô Nghị là hướng dẫn viên du lịch qua khu rạp chiếu phim và viện
bảo tàng. Rạp chiếu phim hình tròn và màn ảnh bên trên cũng tròn quay thành một
vòng tròn 360 độ. Khán giả đứng giữa rạp xem phim phải xoay người hoặc ngoáy cổ
mới xem được hết những hình ảnh được chiếu trên màn bạc. Ðầu tiên phim đưa khán
giả từ con đường lớn rẽ vào khu lăng mộ với kiến trúc phong cảnh hiện giờ, rồi những hầm chôn tượng binh mã và
từ đó hình ảnh mờ dần đưa khán giả về thời nhà Tần xa xưa cách nay hơn 2,200.
Ðạo quân bách chiến bách thắng của Tần Thủy Hoàng đánh bại lục quốc, xây kinh
đô ở Hàm Dương và bắt đầu xây lăng mộ trong vùng Ly Sơn cây cối xanh tươi,
phong cảnh tuyệt đẹp. Phim cho thấy hàng ngàn người đang đào bới, xây cất lăng
mộ bằng gạch nung, những thân gỗ to lớn được ngựa kéo về. Người ta nắn tượng
binh sĩ cao như người thật rồi đốt củi nung lên trong những hầm nung bằng đất
khói bốc cao mờ mịt như khói đốt trên ngọn pháo hỏa đài khi có giặc kéo về. Rồi
người ta xếp những tượng thành hàng ngay ngắn dưới hầm, những đạo quân tiền
phong hướng về phương Ðông và quân hậu vệ đi sau mang cung nỏ. Từng những thùng
châu báu được mang xuống hầm chôn và cửa xuống hầm được trám kín bằng gỗ và đất
bùn trộn rơm trét vào. Rồi nước Tần đi vào suy vong, ngày tàn của bạo chúa đã
tới, quân của Lưu Bang, Hạng Võ kéo về ngựa xe, binh lính càn quét Hàm Dương,
đốt phá cung điện mà Tần đã cho xây hàng ngàn cái quanh khắp kinh thành. Quân
sĩ của Hạng Võ khám phá ra được lăng mộ Tần Thủy Hoàng, phá cửa hầm tiến vào xô
ngã những tượng đất nung để tìm những thùng châu báu. Lửa cháy khắp nơi, Hàm
Dương hoang tàn những xác người còn khu lăng mộ ngổn ngang tượng đất nằm chổng
gọng!
Phim dàn dựng vĩ đại, diễn
viên hàng ngàn người với áo giáp, chiến bào, gươm đao, ngựa xe thời cổ làm khán
giả rất hài lòng. Nhà nước Trung Quốc rất khôn khéo vừa móc được tiền du khách
vừa quảng bá môt thời đại vàng son huy hoàng trong lịch sử nhà Tần xa xưa. Lịch
sử phơi bày hết sự thật, ai bạo chúa, ai minh vương, người nào có công, người
nào có tội sẽ được người đời phê phán. Tần Thủy Hoàng bạo chúa nhưng cũng để
lại nhiều kỳ công, đối với người Trung Hoa hiện nay Mao Trạch Ðông cũng giống
như Tần Thủy Hoàng sát hại hàng triệu người trong cải cách ruộng đất, cách mạng
văn hóa nhưng đối với họ, Mao thống nhất được đất nước Trung Hoa quá bao la
rộng lớn, quy về một mối một vùng đông dân nhất thế giới có quá nhiều dân tộc,
tín ngưỡng, ngôn ngữ khác nhau. Ðưa đất nước Trung Hoa từ tình trạng bị ngoại
bang xâu xé đến một nước có chủ quyền, bảo toàn được lãnh thổ mặc dù là do gặp
được nhiều cơ may do tình hình ngẫu nhiên đưa tới. Thế chiến thứ 2 các cường
quốc từng xâu xé Trung Hoa như Anh, Nga, Nhật bận tham chiến nên Mao Trạch Ðông
cướp lấy thời cơ: khi Nhật bại trận bị Nga đem quân vào Mãn Châu giải giới,
hồng quân của Mao theo sau quân Nga thu lấy vũ khí, máy bay, xe tăng và tiếp
thu các vùng vừa giải phóng tạo danh tiếng vang lừng để sau đó dùng vũ khí và
dư luận tốt mà đánh quân Tưởng Giới Thạch chạy ra Ðài Loan.
Chúng tôi bước sang Nhà Bảo
Tàng trưng bày những tượng binh sĩ tiêu biểu đào lên được từ khu tùy táng,
tượng những quan văn trong tư thế đứng hoặc qùy chầu, tượng binh sĩ mặc áo giáp
đeo cung tên. Những cỗ xe ngựa thời đó có 2 bánh gỗ lớn, thùng xe làm bằng ván
gỗ và mui khum hình mu rùa để che mưa. Xe được kéo bằng tượng 4 con ngựa đi
song song với nhau và được nối kết bằng các thanh gỗ cũng như các sợi dây cương
điều khiển ngựa. Nơi đây cũng trưng bày một ít châu báu được tìm thấy trong khu
lăng mộ Tần Thủy Hoàng như tượng 2 con vịt bằng đồng. Phiá ngoài Nhà Bảo Tàng
là các gian hàng bán các tượng giả sao chép, kích thước lớn nhỏ khác nhau cho
du khách mua về để trưng bày làm kỷ niệm. Bán các món trang trí trong nhà, áo
thêu, áo thun, áo ấm có in hình tượng binh mã, sách, dĩa DVD, bưu ảnh v.v...Nơi
một quày phiá trên có treo ảnh thật lớn của ông già nông dân mặc áo sơ mi
trắng, người tình cờ phát hiện được khung cửa vào khu chôn tượng khi ông ta đào
giếng vào tháng 3 năm 1974. Thấy ông ta ngồi phiá dưới hình đang ngồi ký tên
trên những cuốn sách khổ lớn in hình màu. Tôi đưa máy lên định chụp nhưng ông
ta la lên phản đối có lẽ muốn phải trả tiền. Tôi hỏi cô hướng dẫn viên Ngô Nghị
là “ Ông này bây giờ chắc trở thành triệu phú, giàu có lắm?”. Ngô Nghị cười trả
lời: “Khá hơn lúc trước một chút vì được tuyển dụng làm...công nhân viên cho
Nhà Bảo Tàng!” Công nhân viên thì chắc lương không khá, cao lắm là vài chục đô
la mỗi tháng. Trong khi tôi tưởng ông ta có công phát hiện được cả một khu di
tích lịch sử hơn 2,000 năm với hàng ngàn cổ vật chứng minh một thời đại huy
hoàng của đất nước Trung Hoa và nay là một địa điểm du lịch hàng năm cả triệu
người đến xem thì nhà nước cũng phải chia cho ông vài triệu đô la chứ đâu chỉ
mướn ông làm công nhân viên, mỗi tháng trả vài chục sống qua ngày! Vì vậy ông
bực bội không cho chụp hình là phải! Ông ký sách cho du khách là công việc ông
làm cho nhà bảo tàng khi nhà bảo tàng bán sách, tuy nhiên một số du khách ngoại
quốc nếu biết hoàn cảnh “bi đát” của ông cũng tặng ông tiền bồi dưỡng. Nhưng kẹt
cho ông là du khách đa số cũng như tôi là nghĩ ông đã là triệu phú. Thật là có
“tiếng” mà không có “miếng”! Bực là phải!
Ở Nhà Bảo Tàng ra thì đã
trưa, tới giờ đi ăn và Ngô Nghị dẫn chúng tôi đến nhà hàng quốc doanh lớn nhất
trong khu Tượng Binh Mã. Ðến nhà hàng Ngô Nghị bảo chúng tôi chờ bên ngoài và
cô vào bên trong để lấy bàn. Một lúc cô trở ra cho biết vì cô gọi đặt chỗ trễ
nên phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa mới có chỗ. Cô nói thôi đi nhà hàng khác và
chúng tôi ra xe để đi đến một khu phố nghèo cũ kỹ cách đây vài cây số. Ðây là
một tiệm ăn tư nhân có lẽ chuyên bán đồ chay hay sao mà các món ăn toàn là rau
cải 10 món chỉ lưa thưa vài miếng thịt heo nhỏ! Ðây là bữa cơm nghèo nhất trong
chuyến đi nhưng cũng là một kinh nghiệm cho Ngô Nghị vì qúa chủ quan không tính
trước.
Ăn xong chúng tôi trở lại xem
Hầm Chôn Số 3 cách Hầm Số 1 xem hồi sáng
khoảng 25 mét. Hầm này nhỏ nhất chỉ có 520 thước vuông và người ta tìm thấy có
68 tượng binh sĩ, 4 tượng ngựa và một cổ xe và không sắp đặt dàn quân theo trận
đồ. Những tượng nơi đây mặt được tô nước sơn màu và áo giáp cũng vậy. Các nhà
khảo cổ giám định rằng hầm này là bộ tham mưu chỉ huy cho binh sĩ ở hai hầm
kia. Người ta còn tìm thấy ở đây những xương thú và sừng nai, có thể là những
vật giết để tế lễ trong buổi chiều trước ngày ra trận. Hiện nay các nhà khảo cổ
đang tiếp tục đào xới tại nơi đây.
Sau khi rời Hầm Số 3 chúng
tôi sang Hầm Số 2 cách Hầm Số 1 20 mét về hướng Ðông. Hầm này rộng 6,000 mét
vuông có hình chữ L chia ra 4 khu vuông. Nơi đây khai quật 1,000 tượng binh sĩ,
500 tượng ngựa và 89 cỗ xe bằng gỗ. Những con ngựa đang kéo xe hoặc đang có
tượng người ngồi cỡi, hình dạng rất sống động. Trong khu vuông thứ nhất có 334
tượng lính bắn tên đứng thành 8 đội quân trang bị cung nỏ. Có đạo quân phía
trước 160 người mặc áo giáp và trong tư thế qùy một chân che chắn cho đội quân
thứ hai đứng phía sau nhắm bắn. Khu vuông thứ hai có 64 xe ngựa cũng chia làm 8
nhóm. Mỗi xe ngựa được điều khiển bởi một lính xạ thủ và được hộ tống bởi những
người lính hai bên. Khu vuông thứ 3 có 19 cỗ xe ngựa và 100 binh lính chia ra
làm 3 nhóm và xe ngưa đi trước. Nhóm này có lính làm nhiệm vụ truyền tin và
những xạ thủ cung nỏ. Khu vuông thứ 3 ở về phiá Bắc của hầm có 3 đội quân gồm
124 người và ngựa, 6 cỗ xe, mỗi xe chở hai người một người điều khiển xe và một
người chỉ đường. Những cỗ xe hầm này bị mục nát vì thời gian nhưng tượng lính
nét mặt dữ dằn cầm cung nỏ trong tay. Nhiều tượng xe và người tại Hầm số 2 bị
đổ nát, gảy bể làm nhiều mảnh và các nhà khảo cổ cho rằng bị quân sĩ của Hạng
Võ đập phá xô ngã.
Về cái chết của Tần Thủy
Hoàng, “Sử Trung Quốc” của học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Trong một cuộc kinh
lý, Tần Thủy Hoàng đã bị Trương Lương (Tử Phòng) thuê võ sĩ đón đường ám sát
hụt ở Bác Lãng Sa. Trong một cuộc kinh lý sau, năm 210 trước Công Nguyên, ông
bị bệnh, chết ở dọc đường, người ta phải chở lén thi thể ông về Hàm Dương, rồi
mới tuyên bố cho dân biết và chôn Thủy Hoàng trong một ngôi mộ đã xây sẵn ở Ly
Sơn. Trong mộ chứa rất nhiều châu báu, có một bản đồ của một trăm con sông,
trên đó sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và biển Đông đều bằng thuỷ ngân. Hầm mộ
ngày đêm đều thắp đèn đốt bằng dầu cá, một loại cá đặc biệt giống hình người
(chú thích của người viết: có lẽ ông Nguyễn Hiến Lê dịch từ chữ “nhân ngư” thật
ra là con hải sư (sea lion) là loài hải cẩu lớn). Quan tài hạ rồi, người ta nấu
đồng để gắn phần mộ và đặt một cái máy để hễ có kẻ nào lén vào đào mả thì sẽ bị
những mũi tên từ mọi chỗ phát ra tự động bắn vào. Tương truyền lăng đó do 70
vạn người xây cất trong nhiều năm.
Thủy Hoàng băng rồi, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao làm di chiếu giả, không lập thái tử Phù Tô mà lập thứ tử Hồ Hợi lên ngôi, tức Nhị Thế Hoàng Đế (Hoàng đế đời thứ nhì).
Nhị Thế cũng hà khắc, tàn nhẫn như cha, giết nhiều vương tử, đại thần. Lý Tư bị Triệu Cao ghét, dèm pha, Nhị Thế giết cả ba họ (họ cha, họ mẹ, họ vợ) của Lý. Sau Triệu Cao lại giết Nhị Thế (207 trước CN), lập con Phù Tô, tên Anh, lên thay. Vương tử Anh (hay Tử Anh) lên ngôi rồi giết Triệu Cao, tiếp theo là Tần mất nước. Nhà Tần trước sau chỉ được mười bốn năm, từ vua tới đại thần, không người nào không bất đắc kỳ tử. Thời của Pháp gia thật ngắn ngủi và hết sức bi thảm. Nhưng phải thừa nhận rằng họ có công thống nhất Trung Quốc
Thủy Hoàng băng rồi, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao làm di chiếu giả, không lập thái tử Phù Tô mà lập thứ tử Hồ Hợi lên ngôi, tức Nhị Thế Hoàng Đế (Hoàng đế đời thứ nhì).
Nhị Thế cũng hà khắc, tàn nhẫn như cha, giết nhiều vương tử, đại thần. Lý Tư bị Triệu Cao ghét, dèm pha, Nhị Thế giết cả ba họ (họ cha, họ mẹ, họ vợ) của Lý. Sau Triệu Cao lại giết Nhị Thế (207 trước CN), lập con Phù Tô, tên Anh, lên thay. Vương tử Anh (hay Tử Anh) lên ngôi rồi giết Triệu Cao, tiếp theo là Tần mất nước. Nhà Tần trước sau chỉ được mười bốn năm, từ vua tới đại thần, không người nào không bất đắc kỳ tử. Thời của Pháp gia thật ngắn ngủi và hết sức bi thảm. Nhưng phải thừa nhận rằng họ có công thống nhất Trung Quốc
Thủy Hoàng vừa mới chết là
các anh hùng ở thảo dã nổi lên. Chỉ trong vài tháng, có sáu cuộc nổi loạn, đáng
kể là Trần Thắng ở đất Kỳ (An Huy ngày nay), một nông dân đầu tiên phất cờ khởi
nghĩa, nhưng sớm thất bại, rồi tới Hạng Tịch (cũng gọi là Hạng Vũ) ở đất Ngô
(Giang Tô) và Lưu Bang ở đất Bái (cũng trong tỉnh Giang Tô ngày nay);
Hạng Vũ là dòng dõi tướng nước Sở, Lưu Bang ở trong giới bình dân. Hạng Vũ không có học, nhưng có sức mạnh (nhấc nổi cái đỉnh nặng 500 cân), giỏi chiến thuật, đáng gọi là anh hùng. Lưu Bang cũng gần như vô học, làm đình trưởng (một chức nhỏ trong làng) cho Tần, tham tài, hiếu sắc, gặp thời loạn, thả một bọn tù, kết nạp được một số lưu manh và nông dân, lực lượng rất nhỏ, nhưng biết chiêu hiền đãi sĩ, may mắn được vài anh tài giúp đỡ: Tiêu Hà về việc tài chính (như tể tướng), Trương Lương làm mưu thần, mỗi ngày một mạnh lên.
Mới đầu Hạng Vũ và Lưu Bang đều lấy danh nghĩa là giúp một hậu duệ của vua Sở (Sở Hoài vương) để đánh Tần, hẹn với nhau ai vào được Hàm Dương (kinh đô Tần) trước thì được xưng vương, làm chủ Quan Trung (Tần). Lưu Bang vào được trước, vương tử Anh xin hàng. Nhà Tần chấm dứt. Lưu Bang nghe lời Trương Lương, vỗ về nhân dân, không cho quân lính cướp bóc đốt phá.
Nhưng Lưu Bang tự lượng sức yếu hơn Hạng Vũ nhiều (lúc đó Hạng Vũ đã tới Hàm Cốc, cửa ngõ phía đông của Tần), nên đã nhường cho Hạng Vũ vào Hàm Dương xưng vương. Vào Hàm Dương, Hạng Vũ không nghe lời can của Phạm Tăng, giết vương tử Anh, đốt cung điện nhà Tần, cung A Phòng lửa cháy ba tháng mới tắt, lại quật mộ Tần Thủy Hoàng lên để vơ vét vàng bạc châu báu.”
Hạng Vũ là dòng dõi tướng nước Sở, Lưu Bang ở trong giới bình dân. Hạng Vũ không có học, nhưng có sức mạnh (nhấc nổi cái đỉnh nặng 500 cân), giỏi chiến thuật, đáng gọi là anh hùng. Lưu Bang cũng gần như vô học, làm đình trưởng (một chức nhỏ trong làng) cho Tần, tham tài, hiếu sắc, gặp thời loạn, thả một bọn tù, kết nạp được một số lưu manh và nông dân, lực lượng rất nhỏ, nhưng biết chiêu hiền đãi sĩ, may mắn được vài anh tài giúp đỡ: Tiêu Hà về việc tài chính (như tể tướng), Trương Lương làm mưu thần, mỗi ngày một mạnh lên.
Mới đầu Hạng Vũ và Lưu Bang đều lấy danh nghĩa là giúp một hậu duệ của vua Sở (Sở Hoài vương) để đánh Tần, hẹn với nhau ai vào được Hàm Dương (kinh đô Tần) trước thì được xưng vương, làm chủ Quan Trung (Tần). Lưu Bang vào được trước, vương tử Anh xin hàng. Nhà Tần chấm dứt. Lưu Bang nghe lời Trương Lương, vỗ về nhân dân, không cho quân lính cướp bóc đốt phá.
Nhưng Lưu Bang tự lượng sức yếu hơn Hạng Vũ nhiều (lúc đó Hạng Vũ đã tới Hàm Cốc, cửa ngõ phía đông của Tần), nên đã nhường cho Hạng Vũ vào Hàm Dương xưng vương. Vào Hàm Dương, Hạng Vũ không nghe lời can của Phạm Tăng, giết vương tử Anh, đốt cung điện nhà Tần, cung A Phòng lửa cháy ba tháng mới tắt, lại quật mộ Tần Thủy Hoàng lên để vơ vét vàng bạc châu báu.”
Trên đường về chúng tôi đi
ngang ngọn đồi nơi có mộ chôn Tần Thủy Hoàng nhưng tới nay vẫn chưa đuợc đào
lên. Nhà nước cho rằng thiếu kinh phí để đào và chưa biết cách bảo quản vì đào
lên cần phải nghiên cứu trước kỹ thuật bảo quản không thôi khi gặp không khí
các lớp sơn bên ngoài các tượng hay đồ vật sẽ phai màu rất nhanh. Nghĩa là cần
tiền từ Liên Hiệp Quốc cấp để họ nghiên cứu vì đây là “di sản văn hóa toàn thế
giới” chứ đâu phải chỉ riêng Trung Quốc mà bắt Trung Quốc phải chịu một mình! Nhiều
lời đồn đại cho là nhà nước không dám
động đến mộ Tần Thủy Hoàng vì tin vào phong thủy, trong lịch sử Trung Hoa mấy
ngàn năm luôn nội loạn và đất nước chia rẽ chỉ có hai thời kỳ đất nước được
thống nhất là thời Tần Thủy Hoàng và hiện nay. Động đến mộ Tần Thủy Hoàng sợ
Trung Quốc bạo loạn trở lại nhất là tình hình hiện nay cách biệt giàu nghèo,
thành thị với nông thôn quá chênh lệch.
Ðiện ảnh Trung Quốc vừa tung
ra cuốn phim “Hero” (Anh Hùng) do Trương Nghệ Mưu đạo diễn với các tài tử nổi
tiếng như Trương Mạn Ngọc, Lý Liên Kiệt,
Lương Triều Vỹ thủ diễn các vai chính. “Anh Hùng” là một phim dã sử kiếm hiệp
kỳ tình, lấy các âm mưu ám sát Tần Thủy Hoàng làm ý chính để xây dựng nên cốt
truyện. Phim kể lại vào thời kỳ Chiến Quốc, trước khi diệt được 6 nước khác
(Sở, Tấn, Hán, Chu, Triệu và Yên) Tần Thủy Hoàng (Trần Đạo Minh đóng) ngày đêm
lo sợ có người mưu sát mình nhất là 3 tay kiếm võ công phi thường của nước
Triệu là Chiết Kiếm (Lương Triều Vĩ ), Phi Tuyết (Trương Mạn Ngọc) và Trường
Không (Ân Tử Đơn). Bỗng nhiên vua Tần được tin một hiệp sĩ Vô Danh (Lý Liên
Kiệt) đã giết chết ba tay hiệp sĩ cự phách này. Mừng rỡ, vua Tần vời Vô Danh
vào cung điện để tặng thưởng. Tại điện Vô Danh kể cho Tần Thủy Hoàng nghe diễn
biến mưu cơ giết ba hiệp sĩ nước Triệu. Vô Danh kể là đã dùng kế ly gián, lợi
dụng mối tình tay ba của ba người này để lần lượt khiến cho họ giết nhau. Cứ
mỗi lần Vô Danh kể đến đoạn giết một hiệp sĩ thì lại được tiến gần đến Tần Thuỷ
Hoàng thêm 10 bộ. Cuối cùng Vô Danh chỉ cách Tần Thuỷ Hoàng 10 bộ, để được
vuaTần mời rượu. Nhưng với trí óc thông minh sắc bén, Tần Thủy Hoàng đã kịp
nhìn thấy những kẻ hở của câu chuyện, và suy luận lại về cái chết của ba hiệp
sĩ nước Triệu. Tần Thủy Hoàng nghĩ rằng các hiệp sĩ đã tự nguyện hy sinh tánh
mạng, để Vô Danh có cơ hội vào cung điện mà ám sát vua Tần. Dù không có kiếm
trong tay, nhưng một lúc bất ngờ Vô Danh tước được kiếm của chính Tần Thủy
Hoàng một cách dễ dàng. Chỉ cần đâm một nhát nhưng Vô Danh lại không giết mà bỏ
đi. Những cận thần của Tần Thủy Hoàng đứng bên ngoài thuyết phục Tần nếu không
cho họ giết Vô Danh một ngày nào đó hắn ta sẽ giết Tần Thủy Hoàng và hàng ngàn
mũi tên đã bắn vào Vô Danh khi anh ta bước ra khỏi thành trong khi vua Tần ngồi
trên ngai nước mắt lưng tròng.
Qua phim “Hero” Trung Quốc
muốn nói lên điều gì? Tại sao Vô Danh không giết Tần Thủy Hoàng? Nếu Tần Thủy
Hoàng chết đi 6 nước cứ đánh nhau, đất nước loạn lạc, dân chúng khổ đau. Vua
Tần tàn bạo nhưng ông ta tài ba bản lĩnh hơn những người khác, ông ta cần phải
sống để thống nhất đất nước, quy giang sơn về một mối. Ðặng Tiểu Bình và những
nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay đều là nạn nhân của Mao Trạch Ðông trong thời
Cách Mạng Văn Hóa, qua phim “Anh Hùng”
họ có thể diệt được Mao nhưng họ để Mao sống dù cho họ có thể chết như
hiệp sĩ Vô Danh trong phim. Ðó cũng là lý do bức hình to lớn của Mao Trạch Ðông
vẫn còn ngự trị ở Thiên An Môn và mồ Tần Thủy Hoàng không được động đến. Ðối
với người Trung Hoa mộ chôn rất linh thiêng, mộ bị xâm phạm dòng họ người chết
sẽ ly tan, tài sản sẽ tiêu tán.
CAPTIONS:
5796 Ông lão nông dân phát
hiện ra hầm chôn tượng binh mã
5823 Hầm chôn tượng binh mã
số 2
5824 Viện Bảo Tàng lăng mộ
Tần Thủy Hoàng
5825 Những tượng đất nung được chôn cách nay 2,200
năm
5828 Cỗ xe ngựa tứ mã
5833 Xe ngựa thời Tần Thủy
Hoàng

No comments:
Post a Comment